Tarot Huyền Bí Blog thủ thuật
10/10 1500 bình chọn

Archive by date

Nguyên văn Tạo Thư (“Sefer Yetzirah")

item-thumbnail

Tiểu dẫn: Bài dịch này tôi và Thanatos CK đã dùng bản dịch tiếng Anh của Kaplan, kèm cả lời bàn của cá nhân tôi để giải thích các ý nghĩa của từng câu. Chú giải của tôi có thể không hoàn toàn giống với các bản lưu hành hiện tại. Phía trên mỗi đoạn là phần tiếng Anh, phần này chỉ tham khảo, chứ không phải dịch nguyên từ bản tiếng Anh này. Chú ý là chữ Hebrew phức tạp trong cách hiểu, nên mọi bản dịch chỉ nên tham khảo chứ không nên làm căn cứ để hiểu. Phần chú giải mới chính là ý nghĩa thật của tác phẩm, trong các sách của Do Thái rất đề cao Gematria, vì vậy, phần chú giải nào liên quan đến các con số và sự phân tích số mà đọc giả thấy khó hiểu thì vui lòng xem bài viết Gematria này của tôi. Phần tô xám là phần tôi chưa hiệu đính, dự định sẽ làm từng phần đến cuối năm nay thì xong. 

Chân thành cảm ơn cộng tác viên Thanatos CK đã góp công sức trong việc dịch và hiệu chỉnh bản tiếng việt của Tạo Thư này. Thatatos CK đề nghị giữ kín tên thật.

Nguyên văn Tạo Thư (“Sefer Yetzirah")
do Tác Giả và Thanatos CK đồng dịch.



Chương I

1:1 With 32 wonderous paths of Wisdom engrave Yah, the Lord of Hosts, [God of Israel, the Living God, King of the Universe, Almighty God, merciful and gracious, High and Exalted, dwelling in eternity, whose name is Holy, and create His universe] with three books, with text (Sepher), with number (Sephar), and with communication (Sippur).

1:1 Với 32 con đường vận hành của trí tuệ được khai tạo trong YAH, Chúa Binh Lực, Chúa của Isarel, Chúa Hằng Hữu Kiến Tạo, Vua Vũ Trụ, Chúa Toàn Năng, Đấng đầy lòng xót thương và nhân từ, thế tôn của cõi đời vĩnh cửu, còn gọi là Holy (Thánh), đã tạo ra vũ trụ của mình với 3 cuốn sách, với Văn Thư (gọi là Sepher), Số Thư (gọi là Sephar) và Truyền Thư (gọi là Sippur).

Chú giải: 
Đoạn này giới thiệu về 32 con đường của trí tuệ thông qua 3 công cụ: Sepher, Sephar và Sippur. 32 con đường vận hành trí tuệ được dịch từ chữ LB hay Lamed-Beth, chữ đầu tiên và cuối cùng của 5 cuốn sách Ngũ Thư (Pentateuque gồm Sáng Thế Ký, Xuất Ai Cập Ký, Số Ký...). Chú ý về mặt Gematria trong đó chữ Con đường ("NaTYV" hay NTYV hay nun teth yod beth) có tổng là 461 tức là 21x22, cũng tức là số lượng khả năng đi từ một chữ Hebrew đến các chữ Hebrew còn lại. 
YAH: là tên gọi của Ain Sof (vô cùng tận) là ánh sáng của YOD. YHVH TSEBAOTH: Chúa các đạo binh trên trần gian (tôi dịch là Chúa Binh Lực). ELOHI ISRAEL: chúa của Isarael (tôi dịch Chúa của Isarael). ELOHIM H'AYIM: chúa kiến tạo thế giới (tôi dịch là Chúa Hằng Hữu Kiến Tạo). OUMELEK'H OULAM: vua của Vũ Trụ (tôi dịch là Vua Vũ Trụ). EL SHADDAI: thầy của toàn bộ sức mạnh thiên nhiên (tôi dịch là Chúa Toàn Năng). Đây là các danh xưng của chúa trời. Những danh xưng này có nhiều cách dịch khác nhau.

1:2 Ten Sefirot of Nothingness plus twenty two [foundations] letters: Three Mothers, Seven Doubles, and Twelve Elementals.

1:2 Mười Cõi Hư Vô (gọi là Sefirot), cùng với 22 chữ cái, là nền tảng của tất cả mọi thứ: ba Mẫu Tự, bảy Đối Tự và mười hai Đơn Tự.

Chú giải: 
Đoạn này giới thiệu về 10 cõi hư vô và 22 chữ Hebrew. Chữ Cõi Hư Vô tôi dịch từ chữ "SPIRUT BLIMH" hay "Sephiroth Belimah", đáng lẽ được dịch là Hóa Thân Thiên Chúa, nhưng tôi dịch giống với bản dịch của Mathers vì xét thấy cách dịch Hóa Thân không được sử dụng nhiều ở các bản dịch Anh Ngữ, có thể gây hiểu lầm sau này. Nhưng đọc giả cần hiểu mười cõi hư vô này chính là hóa thân của một thiên chúa duy nhất, là mười biểu hiện của một duy nhất. Đoạn này còn giới thiệu cấu trúc của 22 chữ Hebrew: gồm 3 Mẫu Tự tức là chữ mẹ (tiếng Anh dùng chữ Mother Letters) tức là 3 nguyên tố Lửa Nước Khí tạo thành vũ trụ lúc sơ khai, trước khi hình thành Đất; 7 chữ Đối Tự tức là 7 chữ Kép, tuy một chữ nhưng có 2 dạng âm, ám chỉ số 7 huyền nhiệm như 7 ngày trong tuần, 7 vị thánh, ... và tính đối lập trong vũ trụ: sáng tối, nam nữ, ...; 12 Đơn Tự ám chỉ 12 cấu thành của đất, tương ứng như 12 tháng của năm, 12 tông đồ, 12 cung hoàng đạo ...

1:3   Ten Sefirot of Nothingness: The number of the ten fingers, five opposite five, with a single covenant precisely in the middle, like the circumcision of the tongue and the circumcision of the membrum.

1:3 Mười Cõi Hư Vô (gọi là Sefirot): số của 10 ngón tay, 5 ngón đối diện 5 ngón, với duy nhất một giao ước chính xác ở giữa, như phép thề của lưỡi và phép cắt bì của da.

Chú giải: 
Đoạn này giới thiệu ý nghĩa chân lý của 10 cõi hư vô. Mười Cõi Hư Vô vừa là số mười riêng lẻ, vừa là một cặp của số 5; vừa là một giao ước duy nhất. Tức là đấng duy nhất, có thể coi là mười biểu hiện, vừa có thể goi là một cặp đôi của 5 biểu hiện, vừa có thể coi là đấng duy nhất. Chú ý về Gematria, chữ YOD (có gốc là chữ Yad-od Dalet có nghĩa là bàn tay) có tổng là 10 trong phép Tetragam và cặp đôi He-He cũng có giá trị là 5x2 = 10. Đoạn này ở cuối hơi khó hiểu trong nhiều bản dịch. Ví dụ như bản dịch tiếng Anh của Caplan là "như cắt lưỡi và cắt chi" hoặc bản dịch của Morgane là "như lời nói và cắt da". Ở đây tôi đề xuất dịch là như phép thề của lưỡi và phép cắt bì của da. Tôi cho rằng đoạn này liên quan đến 2 phép quan trọng trong tôn giáo: phép thề nguyền và phép hiến tế.

1:4   Ten Sefirot of Nothingness: Ten and not nine; ten and not eleven. Understand with Wisdom, and be wise with Understanding. Examine with them and probe them, make a thing stand on its essence, and make the Creator sit on his base.

1:4 Mười Cõi Hư Vô: 10 và không phải 9, 10 và không phải 11. Thông Thái và Khôn ngoan, và từ đó trở nên Trí Tuệ. Kiểm tra và truy vấn nó, sẽ thấy mọi thứ đúng với bản chất của nó, và đấng kiến tạo sẽ thành nền tảng.

Chú giải: 
Đoạn này giải thích cách thấu hiểu của mười cõi hư vô. Mười cõi hư vô là đúng đắn và kỳ diệu, không phải thừa thành 11 mà cũng không thể thiếu thành 9. Đọc và suy ngẫm về nguyên lý đó sẽ thấy được bản chất của nó và thấy được chân lý của nó. Đoạn này có nhiều cách dịch như chủ yếu là hai cách dịch chính: một là đưa chữ "đấng kiến tạo" ra trước thành "Ngôn từ sẽ thay dần bằng đấng sáng tạo, và đấng sáng tạo thay dần nền tảng đó" hoặc đưa chữ "đấng sáng tạo" ra sau thành "làm điều giống với đấng sáng tạo và đấng sáng tạo sẽ ngồi vào nền tảng của mình". Cả hai cách dịch đều có ý nghĩa tương tự là nếu chiêm nghiệm thấy suy nghĩ đó ngày càng đúng, thì chân lý đó sẽ hiện hữu dần.

1:5   Ten Sefirot of Nothingness: Their measure is ten which have no end. A depth of beginning, a depth of end; a depth of good, a depth of evil; a depth of above, a depth below; a depth east, a depth west; a depth north, a depth south. The singular Master, God faithful King, dominates them all from His holy dwelling until eternity of eternities.

1:5 Mười Cõi Hư Vô: Thước đo mười này là vô biên. Vô tận bắt đầu và vô tận kết thúc, vô tận cái thiện và vô tận cái ác, vô tận trên cao và vô tận phía dưới, vô tận phía đông và vô tận phía tây, vô tận phía bắc và vô tận phía nam, chỉ có duy nhất một Chúa và Vua, mãi mãi ngự trị trên ngai vàng của ngài, mãi mãi cai trị tất cả.

Chú giải:
Đoạn này giới thiệu về 6 chiều của mười cõi hư vô. Đây là đoạn khá khó hiểu và có nhiều lý luận. Một vài lý luận đã được tôi trình bày ở bài Celtic Cross Spread và bài Cube of Space. Đây là đoạn có nhiều nhà huyền học lý giải và rất được quan tâm. Các giải thích khá khác biệt nhất là đoạn "vô tận bắt đầu ... vô tận phía nam". Một trong cách giải thích được chấp nhận rộng rãi là cách giải thích của Paul Foster Case về cube of space. Đoạn này tôi cho là sự giải thích của các thành phần hoặc cấu trúc của Sephirot.


1:6   Ten Sefirot of Nothingness: Their vision is like the "appearance of lightening", their limit has no end. His Word in them is "running and returning". They rush to his saying like a whirlwind, and before His throne they prostrate themselves.

1:6 Mười Cõi Hư Vô: Hình dạng như sấm sét, không có giới hạn nào. Lời của Thiên Chúa trong chúng là hãy “ra đi và trở lại”, chúng tuân theo mệnh lệnh của Ngài. Chúng vội vàng như những cơn lốc, và trở lại phủ phục trước vương miện của Ngài.

Chú giải:
Đoạn này giới thiệu về cách vận hành của mười cõi hư vô. Chúng là những viên chức của chúa. Đoạn này có nhiều giải nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, tôi hướng đến lời giải nghĩa rằng đây là đoạn giải thích về cách di chuyển trên Tree Of Life giữa các nút Seph: chúng di chuyển như hình dạng sấm sét (tức là hình zic-zac), và di chuyển vô cùng.   Chúng di chuyển liên tục và quay trở về. Điều này giải thích cách di chuyển trên cấu trúc Tree Of Life. như sau: Từ Seph 1 đến Seph 10 được di chuyển theo hình zic zac, từ 1 đến 10 rồi trở lại 1. Chú ý là Seph thứ nhất còn được gọi là Vương Miện. Cách nói "ra đi và trở lại" có thể liên tưởng đến hình ảnh con rắn tự cắn đuôi  trong huyền học. Westcott có vẻ ủng hộ giả thiết zic zac này, từ do thái của "hình đạng sấm sét" là BRQ

1:7   Ten Sefirot of Nothingness: Their end is embedded in their beginning, and their beginning in their end, like a flame in a burning coal. For the Master is singular, He has no second. And before One, what do you count?

1:7 Mười Cõi Hư Vô: Kết thúc của chúng được gắn liền với sự bắt đầu, và sự bắt đầu cũng là sự kết thúc của chúng, giống như một ngọn lửa than đang cháy. Vì vị Chúa duy nhất, không có người thứ hai. Và trước 1, bạn đếm cái gì?

Chú giải:
Hai câu đầu khá dễ hiểu: kết thúc là bắt đầu và bắt đầu là kết thúc. Điều này trong triết học cũng không có gì lạ, nhưng so sánh với hình ảnh ngọn lửa than đang cháy thì không dễ hiểu chút nào. Câu này có thể được hiểu là sự sáng tạo đến từ lửa và kết thúc ở lửa. Chú ý là trong khái niệm do thái, con người được tạo ra đầu tiên từ lửa và thế giới cũng được tạo ra từ lửa và ánh sáng. Những câu sau có nhiều cách hiểu khác nhau. Vì chúa là duy nhất của chính mình là cách hiểu của Westcott, có vẻ Kaplan cố giải thích dễ hiểu đoạn này nên dùng cách dịch là không có người thứ hai. Điều này không hoàn toàn đúng. Câu này cần hiểu là chúa là đầu tiên, và cũng là duy nhất. Chúa sáng tạo thế giới, nên không thể truy nguyên mãi được. Trước chúa, là không có gì cả, cho nên mới có câu hỏi: trước một, bạn đếm cái gì ? Một vừa là số một vừa ám chỉ đấng toàn năng (The One là đấng toàn năng). Kaplan đã khéo léo sử dụng cách chơi chữ của tiếng Anh để diễn đạt một khái niệm do thái khó dịch, điều này theo tôi là thú vị. Dù bản của Westcott được đánh giá cao về dịch sát với huyền học, nhưng khó đảm bảo được sự tế nhị trong câu chữ như Kaplan.

1:8   Ten Sefirot of Nothingness: Bridle your mouth from speaking and your heart from thinking. And if your heart runs, return to the place, as it is written, "The Chayot running and returning". Regarding this covenant was made.

1:8 Mười Cõi Hư Vô: Kìm chế lời nói của bạn và suy nghĩ của bạn. Và nếu trái tim đập, ra đi, trở lại với nơi này, như nó đã được viết: “Chayot ra đi và trở lại”. Giao ước này đã được thực hiện.

Chú giải: 
Đoạn này là đoạn thứ hai có sự xuất hiện của giao ước. Giống như phần giải thích trước, Do Thái có 2 biểu trưng giao ước quang trọng: một là phép cắt bì (thể hiện đức tin thiên chúa) và hai là thề nguyền. Xem lại ở phần 1:3. Ở đây, người ta nhăc nhở về 2 giao ước: bằng miệng (nên hiểu là thề nguyền), và bằng suy nghĩ (nên hiểu là đức tin). Virya giải thích đoạn này bằng cách dịch chữ Chayot thành "sinh mệnh". Ông giải thích câu này như sự phục sinh sau ngày phán xét: chết đi và sống trở lại. Nếu trái tim không thay đổi, tức là giữ đức tin không đổi, thì giao ước được thực hiện, tức là chúa sẽ thực hiện giao ước, đưa người đó lên thiên đàng. Một cách giải thích khác thông qua hình ảnh ra đi và trở lại giống như hình ảnh Ourdoboros rắn cắn đuôi để giải thích ý nghĩa giả kim thuật ám chỉ cơ thể chết đi và sống lại để trở nên bất tử trong quá trình chuyển hóa. Câu "Chayot ra đi và trở lại" trở thành một thần chú để thực hiện giao ước bất tử trong lần chuyển hóa cuối cùng. Câu này được Kaplan tham chiếu đến Kinh Thánh Ezekiel 1:14 "The creatures sped back and forth like flashes of lightning.". Chỗ này nguyên gốc là từ RTzUAV ShUB có nghĩa "currendo et redeundo," nhưng các nhà phân tích lại thường dẫn đến Kinh Thánh Ezekiel tham chiếu từ từ H ChIVT có nghĩa là "the living creatures".

1:9   Ten Sefirot of Nothingness: One is the Breath of the Living God, blessed and benedicted be the Name of the Life of worlds. Voice, Breath and Speech. This is the Holy Breath (Ruach HaKodesh).

1:9 Mười Cõi Hư Vô:  Một là Hơi Thở của Chúa Hằng sống, cầu nguyện và tạ ơn trở thành Danh Xưng của Sự Sống. Âm Thanh, Hơi thở và Lời Nói. Đó là thần khí của thánh.

Chú giải:

Đoạn này tương đối khó hiểu. Câu đầu, thường được hiểu: đầu tiên là hơi thở của cháu hằng sống. Westcott dịch là "The Spirit of the Gods of the Living" - Tinh thần chủa chúa hằng sống, dịch bởi từ RUCh ALHIM ChIIIM có nghĩa "The spirit of the living God.". Câu thứ hai, có nhiều cách dịch nhưng không khác mấy về ý nghĩa. AL ChI H OULMIM có nghĩa là "the Living God of Ages", có nghĩa là chúa hằng sống. Westcott chú ý rằng chỗ này từ "chúa" ở ngôi số ít, duy nhất một. Còn Kaplan dịch thành Danh Xưng của Sự Sống. Câu này nên được hiểu là cầu nguyện và tạ ơn nhân danh xưng của chúa. Xuất phát từ 3 từ : QUL, RUCh, DBR, đây là một thành ngữ tôn quý  tiếng Do Thái ám chỉ khởi nguồn của tiên tri của The Daughter of the Voice ( từ gốc là BATh QUL). Kaplan dịch là Voice, Breath and Speech còn Westcott dịch là The Voice, the Spirit, and the Word, thực ra không khác nhau. Tôi thích cách dịch của Kaplan vì cách dịch này ám chỉ đến đoạn đầu tiên 1:1 về 3 cuốn sách: Văn Thư, Số Thư, Truyền Thư tương ứng với 3 đối tượng Âm Thanh, Hơi Thở, Lời Nói. Từ "Holy Breath" rất khó dịch nên tôi dùng từ Thần Khí của Thánh để cho giống với cách dịch kinh thánh Việt Nam. Căn bản là khái niệm "Breath", có nghĩa là "hơi thở" mang nhiều ý nghĩa ẩn trong văn hóa tây phương, rất khó chuyển đổi sang khái niệm Việt Nam. Cả đoạn này nên hiểu ý chính là hơi thở của chúa là khởi nguồn của tiên tri, và nguồn tiên tri đó thông qua 3 đối tượng. Trong đó đặc biệt chú ý đối tượng hơi thở, tương ứng với Tạo Thư (tức là Số Thư). Một số lý luận cho rằng Một tức là Kether, cõi đầu tiên trong mười cõi, nên đoạn này cũng giải thích ý nghĩa trong Kether .

1:10   Two: Breath from Breath. With it engrave and carve twenty-two foundation letters - three, Mothers, seven Doubles, and twelve Elementals - and one Breath is from them.

1:10 Hai: Hơi thở từ Hơi thở. Với sự chứng giám của nó và tạo ra 22 chữ cái nền tảng gồm ba Mẫu Tự, bảy Đối Tự và mười hai Đơn Tự – và một Hơi thở từ chúng.

Chú giải: 

1:11   Three: Water and Breath. With it engrave and carve chaos and void, mire and clay. Engrave them like a garden plot, carve them like a wall, cover them like a ceiling.

1:11 Ba: Nước từ Hơi thở. Với sự chứng giám và tạo ra từ sự hỗn loạn và trống rỗng, đầm lầy và đất sét. Chứng giám chúng như một khu vườn, tạo ra chúng như một bức tường, bao bọc chúng như trần nhà.

1:12   Four: Fire from water. With it engrave and carve the Throne of Glory, Seraphim, Ophanim, holy Chayot, and Ministering Angels. From the three establish His dwelling, as it is written, "He makes His angels of breaths, His ministers from flaming fire" (P salms 104:4).

1:12 Bốn: Lửa từ nước. Với sự chứng giám và tạo ra Throne of Glory, Seraphim, Ophanim, Thánh Chayot, và các thiên sứ. Từ ba thiết lập sự trú ngụ của Ngài, như đã được viết, “Ngài tạo ra hơi thở cho Thiên sứ của ngài, những người trợ thủ từ ngọn lửa rực cháy” (P salms 104:4).

1:13   Five: With three of the simple letters seal "above". Choose three and place them in His great Name: YHV. With them seal the six extremities. Face upward and seal it with YHV.

Năm: Với 3 chữ cái đơn giản niêm phong “ở trên”. Chọn ba và đặt chúng trong cái tên vĩ đại của Ngài: YHV. Với họ niêm phong sáu chi. Hướng mặt lên trên và niêm phong chúng với YHV.

    Six: Seal "below". Face downward and seal it with YHV.
    Seven: Seal "east". Face straight ahead and seal it with HYV.
    Eight: Seal "west". Face backward and seal it with HVY
    Nine: Seal "south". Face to the right and seal it withn VYH.
    Ten: Seal "north". Face to the left and seal it with VHY.
Sáu: Niêm phong “ở dưới”. Hướng mặt xuống dưới và niêm phong với YHV.
Bảy: Niêm phong “hướng đông”. Hướng mặt thẳng phía trước và niêm phong với HYV.
Tám: Niêm phong “hướng tây”. Hướng mặt về phía sau và niêm phong với HVY.
Chín: Niêm phong “hướng nam”. Hướng mặt sang bên phải và niêm phong với VYH.
Mười: Niêm phong “hướng bắc”. Hướng mặt sang bên trái và niêm phong với VHY.

1:14   These are the Ten Sefirot of Nothingness. One is the Breath of the Living God. Breath [from Breath], Fire [from water, and the extremities], up, down, east, west, north and south.

1:14 Đây là 10 con số hư vô của Sefirot: Một là Hơi thở của Thánh Hằng sống. Hơi thở [từ Hơi thở], Lửa [từ nước, và các chi], lên, xuống, đông, tây, bắc và nam.



Chương 2

2:1   Twenty-two foundation letters: three Mothers, seven Doubles, and twelve Elementals. The three Mothers, AMSh, their foundation is the pan of merit, the pan of liability, and the tongue of decree deciding between them.

2:1 22 chữ cái nền tảng: Ba Bà Mẹ, Bảy Đôi, và 12 Cơ bản. Ba Bà Mẹ, AMSh, cơ sở của chúng là cán cân của giá trị, cán cân của trách nhiệm, và miệng lưỡi của bản án quyết định cuối cùng giữa chúng.

2:2   Twenty-two letters: Engrave them, carve them, weigh them, permute them, and transform them, and with them depict the soul of all that was formed and all that will be formed in the future.

2:2 Hai mươi hai chữ cái: chứng giám chúng, tạo ra chúng, cân nhắc, chuyển hóa và biến đổi chúng, và với chúng miêu tả linh hồn của tất cả đã được định hình và tất cả sẽ được hình thành trong tương lai.

2:3   Twenty-two foundation letters: They are engraved with voice, carved with breath, and placed in the mouth in five places: AChHO, BVMP, GYKO, DTLNTh, ZSShRTz.

2:3 Hai mươi hai chữ cái nền tảng: Chúng được chứng giám bởi giọng nói, tạo ra bởi hơi thở và đặt trên miệng trong năm vị trí: AchHO, BVMP, GYKO, DTLNTh, ZSShRTz.

2:4   Twenty-two foundation letters: They are set in a circle as 231 Gates. And this is the sign: There is no good higher than delight (ONG), and there is no evil lower than plague (NGO).

2:4 Hai mươi hai chữ cái nền tảng: Chúng được đặt trong vòng tròn như 231 Cổng. Và đó là dấu hiệu: không có gì tốt hơn sự vui sướng (ONG), và không có gì tàn ác hơn bệnh dịch (NGO)

2:5   How? Weigh them and transpose them, Aleph with each one, and each one with Aleph; Bet with each one, and each one with Bet. They repeat in a cycle. Therefore, everything formed and everything spoken emanates in one name.
2:5 Như thế nào? Cân nhắc và chuyển đổi chúng. Aleph với mỗi thứ, và mỗi thứ với Aleph; Bet với mỗi thứ, và mỗi thứ với Beth. Chúng được lặp lại trong một chu kỳ. Bởi vì, mọi thứ đã hình thành và mọi thứ đã nói bắt nguồn từ một cái tên.

2:6   From substance out of chaos and make nonexistence into existence. Carve great pillars out of air that cannot be grasped. This is the sign: One forsees, transposes, and makes all creation and all words with one Name. And a sign of this: Twenty-two objects in a single body.
2:6 Từ vật chất của sự hỗn loạn và làm cho từ không tồn tại trở thành tồn tại. Tạo ra những trụ cột tuyệt vời của không khí mà không thể nắm giữ được. Và đó là dấu hiệu: một dự đoán trước, hoán vị, và làm ra mọi sự sáng tạo và tất cả ngôn từ chỉ với một cái tên. Và một dấu hiệu của điều này: 22 vật thể trong một cơ thể duy nhất.

Chương 3

3:1   Three Mothers, AMSh: Their foundation is the pan of liability, the pan of merit, and the tongue of decree deciding between them.
3:1 Ba Bà Mẹ, AMSh: cơ sở của chúng là cán cân của giá trị, cán cân của trách nhiệm, và miệng lưỡi của bản án quyết định cuối cùng giữa chúng.

3:2   Three Mothers, AMSh: A great, mystical, concealed secret, sealed with six rings,. And from it emanate fire and water, separating themselves as male and female. Three Mothers, AMSh, are their foundation, and from them are born the Fathers, from which ev erything was created.
3:2 Ba Bà Mẹ, AMSh: Một sự tuyệt vời, huyền bí, bí mật được che giấu, được niêm phong bởi 6 vòng. Và từ nó sinh ra lửa và nửa, tự tách ra như đàn ông và phụ nữ. Ba Bà Mẹ, AMSh, là nền tảng của chúng, và từ chúng sinh ra các Thượng Đế, từ đó mọi thứ được tạo ra.

3:3   Three Mothers, AMSh, in the Universe are air, water, and fire. Heaven was created from fire, earth was created from water, and the air decides decides between the fire and the water.
3:3 Ba Bà Mẹ, AMSh, trong Vũ trụ là không khí, nước và lửa. Thiên đường được tạo ra từ lửa, Trái Đất được tạo ra từ nước, và không khí lựa chọn giữa lửa và nước.

3:4   Three Mothers AMSh, in the year are fire, water, and breath. The hot is created from fire, the cold is created from water, and the temperate from breath decides between them.
3:4 Ba Bà Mẹ AMSh, trong năm là lửa, nước và hơi thở. Nóng được tạo ra từ lửa, lanh được tạo ra từ nước, và nhiệt độ từ hơi thở lựa chọn giữa lửa và nước.

3:5   Three Mothers, AMSh, in the Soul are fire, water, and breath. The head is created from fire, the belly is created from water, and the chest, created from breath, decides between them.
3:5 Ba Bà Mẹ, AMSh, trong linh hồn là lửa, nước và hơi thở. Phần đầu được tạo ra từ lửa, phần bụng được tạo ra nước, và phần ngực, được tạo ra từ hơi thở, lựa chọn giữa chúng.

3:6   Three Mothers, AMSh: Engrave them, carve them, permute them, and with them seal three Mothers in the Universe, three Mothers in the Year, and three Mothers in the Soul, male and female.
3:6 Ba Bà Mẹ, AMSh: Chứng giám chúng, tạo ra chúng, hoán đổi chúng, và với chúng chứng nhận ba Bà Mẹ trong Vũ trụ, ba Bà Mẹ trọng Năm, và ba Bà Mẹ trong linh hồn, đàn ông và phụ nữ.

3:7   Make aleph king over breath, bind a crown to it, and combine one with another. And with them seal air in the Universe, the temperate in the year, and the chest in the Soul, the male with AMSh, and the female with AShM.
3:7 Tạo ra vua Aleph qua hơi thở, ràng buộc ngai vàng vào đó, và kết hợp với nhau. Và với họ niêm phong không khí trong Vũ trụ, nhiệt độ trong năm, và ngực trong Linh hồn, đàn ông với AMSh, và phụ nữ với AshM.

3:8   Make Mem king over water, bind a crown to it, and combine one with another. And with them seal earth in the Universe, the cold in the Year, and the belly in the Soul, the male with MASh, and the female with ShMA.
3:8 Tạo ra vua Mem qua nước, ràng buộc ngai vàng vào đó, và kết hợp với nhau. Và với họ niêm phong trái đất trong Vũ trụ, cái lạnh trong Năm, và phần bụng trong Linh hồn, đàn ông với MASh, và phụ với ShMA.

Chương 4

4:1   Seven Doubles, BGD KPRT: Their foundation is life, peace, wisdom, wealth, grace, seed, dominance. Each has two sounds: B-Bh, G-Gh, D-Dh, K-Kh, P-Ph, R-Rh, T-Th. A structure of soft and hard, a structure of strong and weak, double because they are transposes. The transpose of life is death, the transpose of peace is evil, the transpose of wisdom is folly, the transpose of wealth is poverty, the transpose of grace is is ugliness, the transpose of seed is desolation, the transpose of dominance is subjugation.
4:1 Bảy Đôi, BGD KPRT: Nền tảng của chúng là cuộc sống, hòa bình, sự khôn ngoan, sự giàu có, cái đẹp, hạt giống, sự thống trị. Mỗi thứ có hai âm: B-Bh, G-Gh, D-Dh, K-Kh, Ph P-, R-Rh, T-Th. Một cấu trúc của cơ cấu mềm và cứng, mạnh mẽ và yếu, bởi vì chúng là các hoán vị. Hoán vị của cuộc sống là cái chết, của hòa bình là cái ác, của sự khôn ngoan là ngu ngốc, của giàu có là nghèo khổ, của cái đẹp là xấu xí, của hạt giống là sự tàn phá, của sự thống trị là chinh phục.

4:2   Seven Doubles, BGD KPRT: Seven and not six, seven and not eight. Examine with them and probe from them, make each thing stand on its own essence, and make the Creator sit on His base.
4:2 Bảy Đôi, BGD KPRT: Bảy và không phải sáu, bảy và không phải tám. Kiểm tra và thăm dò những con số đó, làm cho một điều đúng với bản chất của nó, và làm cho Đấng Tạo Hóa ngồi trên cơ sở của mình. 

4:3   Seven Doubles, BGD KPRT, parallel the seven extremeties. These are the sixextremeties: up, down, east, west, north, south. And the Holy Palace precisely in the middle upholds them all.
4:3 Bảy Đôi, BGD KPRT, song song với bảy đoạn cuối. Đây là sáu đoạn cuối: lên, xuống, đông, tây, bắc, nam. Và tòa lâu đài Thánh nằm ở chính giữa duy trì tất cả.

4:4   Seven Doubles, BGD KPRT: Engrave them, carve them, combine them, as planets in the Universe, days in the Year, and gates in the Soul. From them engrave seven firmaments, seven earths, seven weeks. Seven is therefore beloved under all heavens.
4:4 Bảy Đôi, BGD KPRT: Chứng giám chúng, tạo ra chúng, kết hợp chúng, như những hành tinh trong Vũ trị, như các ngày trong năm, và như những cánh cửa của linh hồn. Từ chúng chứng giám bảy bầu trời, bảy trái đất, bảy tuần. Số bảy vì thế mà được yêu mến bởi tất cả các tầng trời.

4:5   How? Make Bet king over life, bind a crown to it, and with it depict Saturn in the universe, Sunday in the Year, and the right eye in the Soul.
4:5: Làm thế nào? Tạo ra vua Bet vượt qua cuộc sống, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng Sao Thổ trong Vũ trụ, Chủ nhật trong Năm, và con mắt phải trong Linh hồn.

4:6   Make Gimel king, bind a crown to it, and with it depict Jupiter in the Universe, Monday in the Year, and the left eye in the Soul.
4:6 Tạo ra vua Gimel, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho sao Mộc trong Vũ trụ, Thứ Hai trong Năm, và con mắt trái của Linh hồn.

4:7   Make Dalet king, bind a crown to it, and with it depict Mars in the Universe, Tuesday in the Year, and the right ear in the Soul.
4:7 Tạo ra vua Dalet, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho sao Hỏa trong Vũ trụ, Thứ Ba trong Năm, và tai phải của Linh hồn.

4:8   Make Kaf king, bind a crown to it, and with it depict the Sun in the Universe, Wedneday in the Year, and the left ear in the Soul.
4:8 Tạo ra vua Kaf, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho Mặt trời trong Vũ trụ, Thứ Tư trong Năm, và tai trái của Linh hồn.

4:9   Make Peh king, bind a crown to it, and with it depict Venus in the Universe, Thursday in the Year, and the right nostril in the Soul.
4:9 Tạo ra vua Peh, ràng buộc cho nó một vương miện, và nó tượng trưng cho Sao Kim trong Vũ trụ, Thứ Năm trong Năm, và lỗ mũi bên phải trong Linh hồn.

4:10   Make Resh king, bind a crown to it, and with it depict Mercury in the Universe, Friday in the Year, and the left nostril in the Soul.
4:10 Tạo ra vua Resh, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho Sao Thủy trong Vũ trụ, Thứ Sáu trong Năm, và lỗi mũi trái của Linh hồn.

4:11   Make Tav king, bind a crown to it, and with it depict the Moon in the Universe, the Sabbath in the Year, and the mouth in the Soul.
4:11 Tạo ra vua Tav, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho Mặt trăng trong Vũ trụ, ngày nghỉ trong Năm, và cái miệng của Linh hồn.

4:12   The Seven Doubles, how does one permute them? Two stones build two houses, three buid six houses, four build 24 houses, five build 120 houses, six build 720 houses, and seven build 5040 houses. From there on go out and calculate that which the mouth cannot speak and the ear cannot hear.
4:12 Bảy Đôi, làm thế nào để chuyển đổi chúng? Hai viên đá xây được hai ngôi nhà, ba viên xây được sáu ngôi nhà, bốn viên xây được 24 ngôi nhà, năm viên xây được 120 ngôi nhà, sau viên xây được 720 ngôi nhà, và bảy viên xây được 5040 ngôi nhà. Từ đó đi ra và tính toán thứ mà miệng không thể nói và tai không thể nghe.

These are the seven planets in the Universe: The Sun, Venus, Mercury, the Moon, Saturn, Juiter, Mars. These are the seven days in the Year: The seven days of creation. And the seven gates in the Soul are the two eyes, the two ears, the two nostrils, and the mouth. And with them were engraves the seven firmaments, the seven earths, the seven hours. Seven is therefore beloved for every desire under heaven.
Đó là bảy hành tinh trong Vũ trụ: Mặt trời, Sao Kim, Sao Thủy, Mặt Trăng, Sao Thổ, Sao Mộc, Sao Hỏa. Đó là bảy ngày trong Năm: Bảy ngày của sự sáng tạo. Và bảy cánh cổng đi vào linh hồn đó là đôi mắt, hai cái tai, hai lỗ mũi, và miệng. Và chúng được chứng giám bởi bảy bầu trời, bảy Trái đất, bảy giờ. Số bảy vì thế mà được yêu mến cho mọi mong muốn dưới bầu trời.

Chương 5

5:1   Twelve Elementals: HV ZCh TY LN SO TzQ. Their foundation is sight, hearing, smell, speech, taste, coition, action, motion, anger, laughter, thought, and sleep. Their measure is the twelve diagonal boundaries: the north-east boundary, the south-east boundary, the upper-east boundary, the lower-east boundary, the upper-north boundary, the lower-north boundary, the south-west boundary, the north-west boundary, the upper-west boundary, the lower-west boundary, the upper-south boundary, the lower-south boun dary. They continually spread for ever and ever. They are the Arms of the Universe.
5:! Mười hai cơ bản: HV ZCh TY LN SO TzQ. Cơ sở của chúng là tầm nhìn, sự lắng nghe, mùi vị, lời nói, hành động, sự tức giận, nụ cười, suy nghĩ, và giấc ngủ. Phương pháp của chúng là 

5:2   Twelve Elementals: HV ZCh TY LN SO TzQ. Engrave them, carve them weigh them, permute them, transpose them, and with them depict the twelve constellations in the Universe: Aries, Taurus, Gemini. Cancer, Leo, Virgo, Libra, Scorpio, Sagittarius, Capricorn , Aquarius, and Pisces; the twelve months in the Year: Nissan, Iyar, Sivan, Tamuz, Av, Elul, Tishrei, Mar-cheshvan, Kislev, Tevet, Shevat, Adar; and the twelve directors of the Soul: two hands, two feet, two kidneys, the spleen, the liver, the gall bladder, the hemsess, the kiva, and the korkeban.
5:2 Mười hai căn bản: HV ZCh TY LN SO TzQ. Chứng giám chúng, tạo ra chúng, cân nhắc chúng, chuyển hóa, hoán vị chúng, và chúng tượng trưng cho 12 chòm sao trong Vũ trụ: Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Xử Nữ, Thiên Bình, Thiên Yết, Nhân Mã, Ma Kết, Thủy Bình và Song Ngư; 12 tháng trong Năm: Nissan, Iyar, Sivan, Tamuz, Av, Elul, Tishrei, Mar-cheshvan, Kislev, Tevet, Shevat, Adar, và 12 mắt xích của Linh hồn: 2 bàn tay, 2 bàn chân, 2 quả thận, lá lách, gan, túi mật, dạ dày, thực quản và cổ họng.

    How does one permute them? Make Heh king, bind a crown in it, and with it depict Aries in the Universe, Nissan in the Year, and the right hand in the Soul.
    Make Vav king, bind a crown to it, and with it depict Taurus, Iyar in the Year, and the left hand in the Soul.
    Make Zayin king, bind a crown to it, and with it depict Gemini in the Universe, Sivan in the Year, and the right foot in the Soul.
    Make Chet king, bind a crown to it, and with it depict Cancer in the Universe, Tamuz in the Year, and the left foot in the Soul.
    Make Tet king, bind a crown to it, and with it depict Leo in the Universe, Av in the Year, and the right kidney in the Soul.
    Make Yud king, bind a crown to it, and with it depict Virgo in the Universe, Elul in the Year, and the left kidney in the Soul.
Make Nun king, bind a crown to it, and with it depict Scorpio in the Universe, Mar-cheshvan in the Year, and the spleen in the Soul.
    Make Samekh king, bind a crown to it, and with it depict Sagittarius in the Universe, Kislev in the Year, and the gall bladder in the Soul.
    Make Eyin king, bind a crown to it, and with it depict Capricorn in the Universe, Tevet in the Year, and the hemsess in the Soul.
    Make Tzadi king, bind a crown to it, and with it depict Aquarius in the Universe, Shevat in the Year, and the kivah in the Soul.
    Make Kuf king, bind a crown to it, and with it depict Pisces in the Universe, Adar in the Year, and the korkeban in the Soul.

Làm thế nào để chuyển hóa chúng? Tạo ra vua Heh, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho cung Bạch Dương trong Vũ trụ, Nissan trong Năm, và bàn tay phải của Linh hồn.
Tạo ra vua Vav, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho cung Kim Ngưu trong Vũ trụ, Iyar trong Năm và bàn tay trái của linh hồn.
Tạo ra vua Zayin, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho cung Song Tử trong Vũ trụ, Sivan trong Năm, và bàn chân phải của linh hồn.
Tạo ra vua Chet, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho cung Cự Giải trong Vũ trụ, Tamuz trong Năm, và bàn chân trái của linh hồn.
Tạo ra vua Tet, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho cung Sư Tử trong Vũ trụ, Av trong Năm, và quả thận phải của linh hồn.
Tạo ra vua Yud, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho cung Xử Nữ trong Vũ trụ, Elul trong Năm, và quả thận trái của linh hồn.
Tạo ra vua Lamed, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho cung Thiên Bình trong Vũ trụ, Tishrei trong Năm, và lá gan của linh hồn.
Tạo ra vua Nun, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho cung Thiên Yết, Mar-cheshvan trong Năm, và lá lách của linh hồn.
Tạo ra vua Samekh, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho cung Nhân Mã trong Vũ trụ, Kislev trong Năm, và túi mật của linh hồn.
Tạo ra vua Eyin, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho cung Ma Kết trong Vũ trụ, Tevet trong Năm, và dạ dày của linh hồn.
Tạo ra vua Tzadi, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho cung Thủy Bình trong Vũ trụ, Shevat trong Năm, và thực quản của linh hồn.
Tạo ra vua Kufm, ràng buộc một vương miện cho nó, và nó tượng trưng cho cung Song Ngư trong Vũ trụ, Adar trong Năm, và cổ họng của linh hồn.

5:3   Three Mothers which are three Fathers, from which emanate fire, breath and water. Three Mothers, seven Doubles, and twelve Elementals.
5:3 Ba Bà Mẹ cũng là ba Ông Bố, từ đó bắt nguồn ra lửa, nước và hơi thở. Ba Bà Mẹ, Bảy Đôi, và Mười Hai Căn bản.

5:4   These are the twenty-two letters which are founded by the Blessed Holy One [Yah, YHVH of Hosts, God of Israel, the Living God, high and exalted] dwelling in eternity, whose name is Holy, exalted and Holy is He.
5:4 Đó là hai mươi hai chữ cái mà được tạo ra bởi Chân phước Thánh (Yah, YHVH of Hosts, Chúa của Israel, Chúa hằng sống, thế tôn và cao quý) trong cõi đời đời vĩnh cửu, có tên là Thánh, cao quý và Thánh chính là Người.

Chương 6

6:1   Three are the fathers and their offspring, seven are the planets and their hosts, and twelve are the diagonal boundaries. And the proof of this, true witnesses, are the Univers, the Year, and the Soul. He decreed Twelve, (Ten), Seven and Three and He appointed them in the Teli, the Cycle, and the Heart. The three are fire, water, and breath: fire above, water below, and breath, the decree that decides between them. A sign of this is that fire upholds water. Mem hums, Shin hisses, and Alef is the decree that decides between them.

6:1 Ba là những người cha và con của họ, bảy hành tinh và các vật chủ của chúng, và mười hai là những ranh giới chéo. Và bằng chứng của điều này, chứng nhân đích thực, đó là Vũ trụ, năm, và linh hồn. Ngài lệnh cho Mười Hai, (Mười), Bảy và Ba và Ngài phân bổ chúng trong Teli, chu kỳ, và trái tim. Ba là lửa, nước, và hơi thở: lửa trên, nước dưới, và hơi thở, quy định quyết định giữa chúng. Một dấu hiệu của việc này là đề cao lửa hơn nước. Mem ấp úng, Shin rít lên, và Alef là quy định quyết định giữa chúng.

6:2   The Teli in the Universe is like a king on his throne, the cycle in the Year is like a king in the province, the Heart in the Soul is like a king in battle. "Also every desire, one opposite the other was made by God" (ecclesiastes 7:14). Good opposite evil, good from good, evil from evil. Good makes evil recognizable, and evil makes good recognizable. Good is kept for the good, and evil is kept for the wicked .

6:2 The Teli trong Vũ trụ giống như vị vua trên ngai vàng của ông ấy, vòng tròn trong Năm giống như vị vua của lãnh thổ, Trái tim trong Linh hồn giống như vị vua trong cuộc chiến đấu. “Ngoài những điều mong muốn, còn có những điều đối lập được thực hiện bởi Chúa” (Truyền đạo 7:14). Cái thiện đối lập với cái ác, cái thiện từ cái thiện, cái ác từ cái ác. Cái thiện làm cho cái ác có thể được nhận ra, và cái ác làm cho cái thiện có thể được nhận ra. Cái tốt được giữ cho điều thiện, và cái ác được giữ cho kẻ ác.

6:3   Three: Each one stands alone. Seven are divided, three opposite three, with a decree deciding between them. Twelve stand in war: three who love, three who hate, three who give life, and three who kill. The three that love are the heart, the ears and the mouth; the three that hate are the liver. the gall bladder, and the tongue. And God, the faithful King dominates them all. One over three, three over seven, and seven over twelve, and all of them are bound, one to another.

6:3 Ba: Mỗi thứ đứng độc lập một mình. Bảy được chia ra, ba đối diện ba, với một quy định quyết địn giữa chúng. Mười hai đứng trong cuộc chiến: ba người yêu, ba người ghét, ba người cho cuộc sống và ba người giết ta. Ba người yêu đó là trái tim, đôi tai và cái miệng; ba kẻ ghét đó là lá gan, túi mật, và cái lưỡi. Và Chúa, vị Vua trung thành chi phối tất cả. Một hơn ba, ba hơn bảy, và bảy hơn mười hai, và tất cả chúng đều bị ràng buộc bởi một thứ khác. 

6:4   And when Abraham our father gazed, he looked, saw, delved, understood, engraved, carved, permuted and depicted, and he was successful. And the Master of all, Blessed be He, revealed Himself to him, and took him in His bosom, [kissed him on the head, and called him, "my Beloved"]. He made a covenant with him between the ten toes of his feet-this is the covenant of circumcision-and between the ten fingers of his hand-this is the covenant of the tongue. He bound the twenty-two letters to his tongue and revealed their foundation. He drew them in water, burned them in fire, agitated them with breath. He ignited them with seven planets, and directed them with twelve constellations.

6:4 Và khi ông tổ Abraham của chúng ta nhận thấy, nhìn, quan sát, nghiên cứu, hiểu, chứng nhận, tạo ra, hoán đổi và mô tả điều đó, và ông đã thành công. Và Chủ nhân của tất cả, đã cầu phúc là ông, bày tỏ với chính bản thân mình, và đưa ông vào tâm hồn của mình [hôn lên trán ông, và gọi ông là “người tôi yêu”]. Ông đã thực hiện một giao ước với Ngài giữa mười ngón chân của bàn chân ông – đây là giao ước của circumcision – và giữa mười ngón tay của bàn tay ông – đây là giao ước của cái lưỡi. ông ràng buộc mười hai chữ cái vào lưỡi của mình và tiết lộ nền tảng của chúng. Ông nhấn chìm chúng trong nước, đốt trong lửa, kích động chúng với hơi thở. Ông làm nóng chảy chúng với bảy hành tinh, và điều khiển chúng với mười hai chòm sao.


Aryeh Kaplan Sefer Yetzirah 1991

http://www.morgane.org/sefer.htm
http://hermetic.com/texts/yetzirah.html

Đọc tiếp »

Tarot và Giao Ước - P2

item-thumbnail
1. Giới Thiệu

Như đã nói ở phần trước, phần nay tôi tập trung vào các vấn đề liên quan như nghi lễ lập giao ước, nghi lễ gọi giao ước, nghi lễ hiến tế, nghi lễ khôi phục hiến tế, và định tính đấng linh thiêng.Trong đó, việc định tính các đấng là quan trọng nhất. Nó là nền tảng cơ bản của quỷ học nói chung, nghệ thuật hắc ám: bao gồm trục quỷ, tiên tri, cầu gọi, phép thuật... 

Vẫn như trước tôi nhắc lại vài chú ý quan trọng: 

- Những lý luận này là không chính thống trong cả Thiên Chúa Giáo, Do Thái Giáo, hay Phật Giáo. Nó gắn liền với các lý luận của Nghệ Thuật Bóng Tối (Black Magic) nói chung, và nhiều lý luận tà phái khác. Các bạn phải mặc nhiên hiểu là những lý luận này đương nhiên NGƯỢC HOÀN TOÀN với quan điểm chính thống.Vì vậy, tôi sẽ KHÔNG TRANH LUẬN với các bạn về tính đúng đắn của nền tảng này.
- Những lý luận này có nguồn gốc từ những tài liệu hoặc kiến thức có được không thông qua sách vở chính thống (tức là thuộc dạng truyền miệng, hoặc sách cấm xuất bản ...). Vì vậy, tôi sẽ KHÔNG CÓ NGHĨA VỤ DẪN NGUỒN. Trong trường hợp, kiến thức này có xuất hiện đâu đó trong sách chính thống, tôi sẽ gửi riêng nếu có yêu cầu.
- Khi tôi dẫn những lý luận này ra, KHÔNG có nghĩa là tôi CHỐNG hay BÁNG BỔ các tôn giáo. Và cũng không có nghĩa là tôi TIN hoặc là TÍN ĐỒ của các tư tưởng tà phái này. Đây là kiến thức, không phải tín điều.

Một lần nữa, đề nghị RỜI KHỎI TRANG nếu thấy đây là một bài KHÔNG phù hợp với TIÊU CHÍ ĐỌC của bạn. Còn lại, mời đến với thế giới quỷ học ...

In the garden. Ảnh: Patrick Valenza

2. Định Tính của Đấng Linh Thiêng

Định tính các đấng linh thiêng là một trong những kiến thức quang trọng nhất của quỷ học. Càng nắm được đầy đủ các thông tin này, thì sự phát triển các kỹ năng quỷ thuật càng mạnh lên. Việc định tính các đấng linh thiêng luôn là một công việc khó khăn. Một mặt, các đấng linh thiêng trong các tôn giáo hay văn hóa khác nhau thì có thể mang tên khác nhau. Mặc khác, một cái tên của đấng linh thiêng có thể không phải cùng ám chỉ  một đấng duy nhất. Tài liệu mô tả hầu hết bị đốt bỏ, phá hủy, hoặc bị che giấu.

Một đấng linh thiêng được xác định thông qua tên gọi. Tên gọi của đấng linh thiêng là bí mật quan trọng nhất của các giáo phái. Tên gọi này là một chuỗi những âm tiết đặc trưng nhằm liên kết giữa đấng và con người. Chỉ khi nào nắm được tên và phát âm chính xác cái tên đó thì mới thực hiện được việc lập giao ước. Việc nắm được tên của đấng linh thiêng là bước đầu tiên để thiết lập giao ước. Ai cũng biết JHVH hay Giê Hô Va là tên của đấng linh thiêng của người Do Thái. Nhưng không phải ai cũng biết phát âm chính xác cái tên đầy đủ của đấng này. Không phải ngẫu nhiên mà việc nắm giữ cái tên này chính là sự xác nhận vị trí của một vị tư tế, và đó cũng là điều duy nhất quang trọng mà vị tư tế này truyền lại cho vị tư tế trẻ hơn tiếp nhận vị trí lãnh đạo. Chỉ có vị tư tế lãnh đạo mới được phép biết đến cái tên thật này thông qua một bài thánh ca nhỏ. Đây chính là một ví dụ để cho thấy sự quan trọng của cái tên.

Có 4 thuộc tính quang trọng: lửa, nước, khí, đất. Bốn thuộc tính này là cơ bản nhất trong tất cả các nền văn hóa. Ở phương đông, thuộc tính Mộc chính là đại diện của yếu tố Khí. Các bạn có thể nhận ra một cách mơ hồ thuộc tính này thông qua cách thức mà đấng linh thiêng giao tiếp với con người, hoặc cách bố trí các nghi lễ. Đây là việc cực kỳ quang trọng vì các đấng chỉ có thể nhận sự hiến tế này thông qua các phương cách khác nhau tùy vào thuộc tính. 

Tôi bàn thêm về các an táng của các nền văn hóa để làm rõ hơn yếu tố này. Phật giáo chủ trương Hỏa Táng, tức là dùng lửa đốt thành tro, ta có thể nhận ra đấng linh thiêng trong phật giáo có thuộc tính lửa. Hồi giáo chủ trương Thủy Táng, cũng giống như người Polynesia, hay dân tộc Nhật cổ đại, dùng thuyền để chứa người chết rồi thả trôi biển hay sông, hình thức táng bằng thuyền của Vn cũng vậy, từ đó có thể thấy các đấng linh thiêng này có thuộc tính nước; hình thức Không Táng của người Maya, của Tây Tạng, của hang động tại Thanh Hóa trong những phát hiện gần đây, hay truyền thống một thời của cư dân vùng Long An, Đồng Tháp cũng ám chỉ đấng linh thiêng này thuộc tính khí; hình thức thông dụng nhất, Địa Táng cũng ngầm ám chỉ rằng đấng linh thiêng được thờ phượng của dân tộc đó thuộc tính đất. 

Một cách nhìn nhận khác từ các nghi lễ hiến tế chẳng hạn. Hình thức đốt vật hiến tế (như hỏa thiêu, hay đốt vàng mã) chính là hình thức hiến tế của các đấng có thuộc tính lửa; cách hiến tế bằng trấn nước, hoặc các hình thức tôn sùng rượu của thần rượu nho cũng là hình thức hiến tế của các đấng có thuộc tính nước; các hình thức hiến tế bằng cách chôn các đồ vật hay lễ hiến, thể hiện thuộc tính đất; hình thức hiến tế phơi xác, hay nhồi bông đầu lâu của các dân tộc Nam Mỹ chính là hình thức hiến tế của thuộc tính khí. 

Một cách nhìn nhận gần gũi hơn đối với các bạn quen sử dụng hình thức tiên tri. Các phương pháp bletonomancy, ceromancy, cyclicomancy, eromancy, hydatomancy, lecanomancy, plumbomancy, hydromancy, bletonomancy, cottabomancy ... đều dựa vào đấng linh thiêng có thuộc tính nước; eromancy, aeromancy, anemomancy, austromancy ... đều dựa vào đấng linh thiêng có thuộc tính khí; geomancy, Halomancy, amathomancy, ambulomancy... đều dựa vào đấng linh thiêng có thuộc tính đất; pyromancy, cineromancy, libanomancy, tephramancy, ossomancy, astrapomancy, capnomancy, libanomancy... đều dựa trên các đấng linh thiêng có thuộc tính lửa. Các hình thức tiên tri không đựa trên các dụng cụ hay hình thức liên quan đến 4 loại này được xem là trung lập, mọi đấng linh thiêng đều có thể tương tác.

Mỗi đấng linh thiêng sau khi lập giao ước đều cần có một nơi hiến tế. Con người sau khi lập giao ước cũng phải xây dựng nơi hiến tế: đó là các đền thờ. Trong một số trường hợp, nơi hiến tế thường là mơi bí mật. Vì khi hiến tế, bắt buộc người ta phải xướng tên của đấng giao ước lên. Và như đã nói ở trên, các phát âm cái tên là bí mật quan trong bật nhất đối với bất kỳ hội phái nào. Chỉ khi nào biết được tên của các đấng thì mới có thể thực hiện giao ước, triệu gọi hay hủy giao ước. Còn rất nhiều vấn đề khác trong việc định tính đấng linh thiêng mà tôi không thể trình bày cặn kẽ được. Chỉ có thể trình bày tạm đến đây.



Sacrifice of Isaac của danh họa Pedro Orrente (1580-1645)


Abraham and Isaac của danh họa Laurent de La Hyre (1606-1656). 

3. Nghi Lễ Giao Ước

Các phương pháp và nghi lễ của giao ước rất phức tạp. Một mặt, không phải tất cả những giao ước được mô tả trong các tài liệu cổ đều thật sự là giao ước, đôi khi đó là khôi phục giao ước, hoặc triệu gọi giao ước. Trong kinh thánh có vô số lần giao ước (khoảng 70 đến 80 giao ước được thiết lập, khoảng 300 lần từ ''giao ước'' được lập lại), điều đó cho thấy vai trò của giao ước trong đời sống Do Thái và Thiên Chúa Giáo là hết sức quang trọng. Trong khoảng 70 giao ước này chỉ có 5 lần giao ước được xác nhận là giao ước thật, còn lại đều là khôi phục giao ước. Năm lần này giao ước với bốn đấng linh thiêng khác nhau (điều này trái với quan điểm thiên chúa về thiên chúa duy nhất): Giao Ước Noe (Sáng thế ký 9.8-17), Giao Ước Abraham (Sáng thế ký 12 và 15); Giao Ước Levy (Dân số ký 3); Giao Ước David (II Samuên 7); và Giao Ước Jesus. Sách ngoài kinh thánh bao gồm các sách quỷ thuật và sách cấm, có tổng cộng gần 30 giao ước được mô tả đầy đủ, còn lại là ghi chép thiếu sót. Có hơn 800 giao ước được biên lại trong lịch sử. Trong các tài liệu cổ đó, có khoảng gần 120 giao ước được công nhận là giao ước thật; khoảng 500 giao ước được xác định là khôi phục giao ước hoặc triệu gọi giao ước. Đây là các con số tương đối đầy đủ về những hiểu biết của con người về giao ước. Các tài liệu này chủ yếu từ văn hóa châu Âu, Ấn và Ả rập. Không có bất cứ nghiên cứu nào sâu hơn về giao ước ở phương đông.

Một số tôn giáo và giáo phái đã thực hiện lập giao ước, và các tài liệu hướng dẫn này cũng là một trong những quyền lực mềm của họ. Các tài liệu này khi lọt ra ngoài, thường bị biến dạng khi đi vào các nhà xuất bản, những cuốn sách quỷ thuật, hay kết nối tâm linh ... đều hướng dẫn một cách nửa vời. Một trong số đó đã được hội Tam Điểm chỉ mặt như tác phẩm của William Peter Blatty.  Hội Tam Điểm cho rằng mình đã phải trục quỷ cho hàng trăm người vì thực hiện theo các hướng dẫn của tác giả này. Một tác giả khác nổi tiếng trong Tarot là Aleister Crowley cũng bị hội Tam Điểm lên án vì những chỉ dẫn nửa vời.

Người ta nhận thấy trong các giao ước này nhưng điểm chung, và một vài nhà thần học thế kỷ 16 đã chỉ ra một vài quan điểm phân loại quang trọng vẫn ảnh hưởng đến các phân loại ngày nay. Người ta chia giao ước ra làm 2 loại tùy theo cách giao ước được hình thành:

- Giao ước mạnh (Heavy Covenant, hay Heavy Testament): giao ước được đưa ra bởi con người đối với một đấng linh thiêng. Con người chủ động tìm đến đấng và đề nghị được giao ước. Có 2 trường hợp xảy ra:  một là người này sử dụng giao ước với một đấng khác mạnh hơn để chế ngự đấng mới và sau đó lập giao ước có lợi (như trường hợp nổi tiếng của Vua Solomon); hai là người này tự có thể cảm nhận được các đấng linh thiêng và thực hiện giao ước trực tiếp, không thông qua bất kỳ một giao ước nào trước đó.

Giao ước thông qua chế ngự là một trong những biện pháp thông thường nhất sử dụng. Cũng là một trong những biện pháp được điện ảnh hóa hay văn học hóa nhiều nhất. Kiểu giao ước này thường được sử dụng khi xâm chiếm lãnh thổ. Những người chiến thắng quay trở lại tiếp tục hiến tế cho đấng linh thiêng của dân tộc thất bại. Một điều nguy hiểm là nếu dân tộc chiến thắng giảm sự sùng kính đối với đấng linh thiêng của dân tộc mình, mà quay lại sùng kính đấng của dân tộc kia, thì có thể bị chính đấng giao ước của bản thân mình trừng phạt. Điển hình nhất của kiểu trừng phạt này là trong kinh thánh. Có thể trích một chút từ Deuteronomy 13:13 "and after they have been destroyed before you, be careful not to be ensnared by inquiring about their gods, saying, “How do these nations serve their gods? We will do the same.”", dịch "thì hãy giữ lấy mình, kẻo sau khi chúng nó đã bị diệt khỏi trước mặt ngươi, ngươi sa vào bẫy, bắt chước chúng nó, mà hỏi rằng: Các dân tộc nầy phục sự các thần mình thế nào? Ta cũng muốn làm theo vậy nữa". Tuy nhiên, cũng có những trường hợp thành công như Vua Solomon.


Trên thế giới không có nhiều người có khả năng cảm nhận được thế lực của đấng linh thiêng, và không phải ai cũng có thể giao tiếp với các đấng linh thiêng để lập giao ước. Chú ý 2 vấn đề: Một là tránh lẫn giữa điều này với hiện tượng "lên đồng", hiện tượng này là sự giao ước của một người và một đấng nào đó; khi lên đồng thì người đó chỉ có thể cảm nhận (hay kết nối) với duy nhất một đấng được giao ước trước đó. Hai là tránh lần lẫn với các pháp sư "Trục Quỷ", những người này có thể dựa vào kinh nghiệm và kiến thức về các dấu hiệu và biểu hiện của các đấng linh thiêng để nhận ra được sự có mặt của các đấng này. Cả 2 trường hợp này đều khác so với người có khả năng cảm nhận bẩm sinh các thế lực đấng linh thiêng. Bất kỳ dân tộc nào có được những đứa trẻ như vậy đều trở lên hùng mạnh vì nhờ đứa trẻ ấy, mà số lượng các giao ước được nâng lên đáng kể. Hầu hết những đứa trẻ này đều trở thành những bậc vĩ đại. Một số truyền thống cho rằng những đứa trẻ này chết đi sẽ trở thành một đấng linh thiêng khác. Nhưng hãy nhớ, không phải lúc nào đứa trẻ này cũng được chào đón, vua Herod khi biết đứa trẻ Jesus chào đời, đã giết tất cả những đứa trẻ Do Thái chào đời để phòng ngừa. Đáng buồn, các đứa trẻ này trong thời kỳ trung cổ luôn bị giáo hội hoặc các hội phái giành giật hoặc giết chết. Một trong những nguyên nhân hội Tam Điểm lập ra chính là để bảo vệ những đứa trẻ đặc biệt này.

Giao ước mạnh bao gồm cả vấn đề thụ hưởng giao ước, và khôi phục giao ước một cách chủ động.

- Giao ước yếu (Week Covenant): giao ước yếu là dạng giao ước mà do đấng linh thiêng gợi ý trước. Một là người này tham gia một tôn giáo hay hội phái nào đó, và thụ động được hướng dẫn thực hiện giao ước, được cho biết tên các đấng và nghi lễ cần thiết ..., thường thì những giao ước này chỉ là giao ước phụ trong các giao ước chính của giáo phái đó. Khi xét một quan hệ giữa giáo phái và đấng linh thiêng, có thể không chỉ một mà hàng trăm các giao ước khác nhau cùng vô vàn mối liên hệ chằng chịt giữa các nghi lễ và hiến tế. Chỉ có giao ước "duy nhất một" giữa người lãnh đạo và đấng linh thiêng mới được xem là giao ước chính. Có thể lấy ví dụ của Giao Ước Abraham hay Giao Ước  David để minh họa cho kiểu giao ước chính phụ này. Hai là các đấng linh thiêng hiện ra và yêu cầu giúp đỡ con người để đổi lại sự hiến tế. Đây là kiểu giao ước nguy hiểm, vì chỉ khi nào đấng ấy thấy được đặc điểm nào đó có lợi cho đấng thì mới đề nghị sự hiến tế. Thông thường, những đề nghị này lúc nào cũng hấp dẫn, và có vẻ như có lợi. Tuy nhiên, con người rất hay dính vào bẫy này của các demon.

Giao ước yếu này rất thường xảy ra và có nhiều tài liệu hoặc hướng dẫn hơn cả.Trường hợp giao ước yếu đạng chính phụ thì hầu như xuất hiện ở các dạng giao ước liên quan đến bùa, chú, hay các ma dược. Chỉ cần tuân thủ đúng phương pháp thực hiện thì đều có thể sử dụng một cách thuần thạo. Tuy nhiên, luôn nhớ là loại giao ước này dính liền với sự phục tùng của ta đối với giáo đoàn hay hội nhóm. Vì vậy, ta vẫn không được tự do hoạt động theo cách của mình. Đa số các trường hợp, người ta gia nhập giáo phái một thời gian, sau đó tự tìm cho mình các giao ước chính. Trường hợp giao ước do đấng đề nghị thì chiếm đa số trong các trường hợp tìm đến các pháp sư để trục quỷ. Phần nhiều con người không tuân thủ đúng theo sự hiến tế trong giao ước, và rất thích lật lọng với đấng linh thiêng. Đôi khi là do những suy nghĩ nhất thời, thiếu suy xét, nên sau đó hối hận và không thực hiện theo giao ước. Hằng năm có đến hàng trăm ngàn báo cáo và mô tả về các giao ước này trên các phương tiện thông tin đại chúng và vì vậy, càng tệ hại hơn, càng có nhiều người bắt chước làm theo.


Ngoài ra người ta có thể phân giao ước thành 2 loại: giao ước hiến tế một lần, hoặc giao ước hiến tế nhiều lần. Loại giao ước hiến tế một lần là loại giao ước cực kỳ mạnh và rất hiếm. Vì để có giao ước này, vật hiến tế phải là một thứ gì đó rất quý giá (có thể xem sự hiến tế Isaac của Abraham thuộc loại này). Còn hầu hết các giao ước còn lại đều là giao ước nhiều lần, giao ước này có thể thuộc dạng hiến tế trước hoặc sau khi thực hiện cam kết. Một số giao ước hoàn thành ngay sau khi hiến tế như trường hợp các vua Ai Cập cung hiến máu của kẻ dịch sau khi chiến thắng nhờ sự giúp đỡ của đấng linh thiêng, tức là hiến tế sảy ra sau khi giao kết, và giao ước này cũng đồng thời được kết thúc.


Để thực hiện nghi lễ lập giao ước, cần biết : tên và đặc tính của đấng linh thiêng ấy, tùy theo đặt tính mà thực hiện hiến tế lần đầu tiên cho phù hợp, thực hiện hiến tế càng gần với đặc tính của đấng thì khả năng đấng đáp ứng càng cao. Sau khi đấng biểu hiện, cần có người biết cách nhận biết các biểu hiện đấy, đồng thời ghi chép hoặc giao tiếp để thương lượng về các giao kết trong giao ước. Khi giao ước hoàn tất, các dấu hiệu sẽ đấng chấp nhận sẽ được hiển thị trên đồ cúng tế. Nghi thức lập giao ước hoàn thành. Người lập giao ước cần có kiến thức: tên và phát âm chính xác đấng đó, thuộc tính của đấng đó, biết cách đọc các biểu hiện và đoán nhận các biểu hiện, biết cách giao tiếp thông qua các công cụ huyền học.



The Sacrifice of Noah của danh họa Michelangelo

Sacrifice to Vesta của danh họa Sebastiano Ricci

4. Triệu Gọi và Hiến Tế


Bàn về cách triệu gọi hay dấu hiệu giao ước, có vô số cách tiếp cận và phân loại. Đối với các giao ước đơn lẻ thì có thể phân loại dễ dàng, nhưng với các giao ước phức tạp thì sự phân loại này không lúc nào cũng đúng. Người ta thường phân làm 5 nhóm triệu gọi hay dấu hiệu giao ước: một là thông qua ngôn ngữ, một câu bùa chú, một chuỗi âm thanh xác định, hay một quy cách tạo nhạc; hai là thông qua một hình vẽ, một biểu đồ, một ký hiệu xác định; ba là thông qua một đồ vật nào đó, một cây kiếm, một hòn đá, một tờ giấy hay bất cứ thứ gì; bốn là thông qua một ma dược, một loại bột, hay một hỗn hợp thức ăn;  bốn là thông qua một tư thế, một cách xếp tay, một thủ tục hay một nghi lễ nào đó.

Loại thứ nhất có thể ví dụ như câu thần chú abracadabra nổi tiếng khi triệu gọi Abrac. Chỉ cần bất kỳ ai nắm được sự phát âm của câu thần chú đều có thể sử dụng uy lực của nó. Các thần chú này tùy thuộc vào loại giao ước như tôi đã nói ở trên. Thần chú có thể là một giao ước ẩn giống như giải thích của bài trước, hơac có thể là loại giao ước một lần duy nhất. Dấu hiệu bằng thần chú có thể xem là kiểu dấu hiệu giao ước đơn giản nhất và cổ nhất.


Loại thứ hai có thể ví dụ như Abramelin Square hay Sator Square chẳng hạn. Tương tự như thần chú, nhưng các đồ hình cần biểu diễn ở mức độ chính xác cao, vì vậy mới xuất hiện các pentacle hay seal, được thực hiện bằng đồng hay sừng để đạt được tính chính xác của những ký hiệu . Quang trọng nhất các tỉ lệ các kích thước trong đồ hình cần phải thật chính xác. Vì sự tiện dụng sau khi xuất hiện nghề in, việc sử dụng các đồ hình rõ ràng ngày càng ít đi, một số biểu tượng đồ hình tổng quát, hay bí ẩn được đưa ra, nhằm tạo hạn chế cho việc sử dụng một cách vô ý thức các đồ hình này. 


Loại thứ ba có thể lấy ví dụ Excalibur của King Athur, Durendal của Bá Tước Roland, Dyrnwyn của Hael, Necklace of Harmonia của Harmonia, nhẫn Andvarinaut của Andvari... Loại giao ước này chỉ có thể thuộc loại "duy nhất một". Loại giao ước này có một đặc điểm đặc biệt: đó là đấng giao ước có thể trú tại đồ vật đó, chứ không phải nơi hiến tế, hoặc nói cách khác, nơi hiến tế chính là trên đồ vật đó. Dạng giao ước này thường là dạng giao ước chế ngự, trong đó đấng bị chế ngự được phong tỏa bên trong đồ vật. Đôi khi kiểu giao ước này được coi là kiểu giao ước không chủ nhân. Vì bất cứ ai có được đồ vật đều có thể thực hiện hủy giao ước, lập giao ước, truyền giao ước, hay khôi phục giao ước ngay tại lúc nhận được đồ vật. Nên sau này, thường dạng giao ước này đi kèm với một dấu hiệu khác để đảm bảo sự bền vững cho chủ nhân.


Loại thứ tư có thể lấy nhiều ví dụ như ma dược tình yêu, ma dược gọi hồn ... có hẳn hàng trăm sách ma dược xuất hiện từ đầu thế kỷ cho đến nay. Loại giao ước này vẫn chưa thống nhất và gây tranh cãi. Vấn đề nằm ở chỗ có xem dược tính chữa bệnh như là một giao ước hay không. Các loại ma dược được ghi chép lại rất ít khi gắn liền với một đấng linh thiêng nào cụ thể, do đó gây rất nhiều trong sự phân định và tìm hiểu.


Loại thứ năm là một thủ tục, hay nghi lễ nào đó. Các nghi lễ tấn phong, hay bí tích thiên chúa là những ví dụ có thể gặp. Loại này có thể cũng đồng thời là một thủ tục hiến tế hay triệu gọi. Loại dấu hiệu triệu gọi này phức tạp và thường là sự giao kết của giáo đoàn hay một cộng đồng với một đấng linh thiêng chứ ít khi là một giao kết cá nhân. Vì vậy, trên thực tế, sự tiếp nhận giao ước chính đối với người lãnh đạo giáo đoàn và đấng linh thiêng luôn thực hiện với nhiều qua tắc phụ, nhằm hạn chế tối đa sự sao chép, hay lạm dụng các dấu hiệu này. Từ ban sơ, các giáo đoàn và hội kín đã biết các thêm thắt nhiều chi tiết phụ vào các thủ tục này để nó trở nên rườm rà, và khó bắt chước.  Nhờ đó đảm bảo bí mật của giao ước được kế tục một cách hợp pháp. Cũng chính vì vậy, mà việc khôi phục giao ước càng khó khăn hơn, vì đôi khi các mô tả tập trung vào các chi tiết phụ mà không đề cập đến các chi tiết quan trọng của nghi thức.


Lễ hiến tế tùy vào giao ước mà có cách thực hiện khác nhau. Tuy nhiên có vài điểm quy tắc chung. Trong lễ hiến tế, tên của đấng giao ước sẽ được xướng lên. Vì vậy, ngày giờ và nơi hiến tế cũng trở thành những bí mật bị che giấu. Cách hiến tế cũng thể hiện rõ tính chất và công dụng của giao ước lẫn đấng linh thiêng. Đồ vật hiến tế luôn được quan sát trong suốt buổi lễ nhằm nhận ra dấu hiệu của đấng linh thiêng phán gửi. Lễ hiến tế gần giống như lễ lập giao ước, đều cần sự hiểu biết về các dấu hiệu, sự thông hiểu các công cụ giao tiếp với đấng linh thiêng. Về nguyên tắc, lễ hiến tế luôn thực hiện với vật tế sống và máu tươi là một món quà rất giá trị.Đối với văn hóa Âu và Trung Đông thì hiến tế sống rất quen thuộc. Còn ở châu Á nghi lễ hiến tế sống khá ít. Các nghi lễ hiến tế này cũng tồn tại ở châu Á, như các nghi lễ hiến tế thần sông Hà Bá hay các nghi lễ hiến tế của các Sa Gôn ở lưu vực sông Mê Kông. Dấu tích của nghi lễ này còn nằm ở các vùng đồng bằng cổ như Sông Hồng qua tục chọi trâu Sầm Sơn. Tuy nhiên, quy tắc hiến tế đã được mở rộng thêm về quy tắc hiến tế "không-sống" như trường hợp Phật Giáo, sử dụng hoa và trái cây. Tuy nhiên, lý luận này không được công nhận hoàn toàn. Những nhánh phật giáo ở Nhật, Ấn, hay phía Nam Á vẫn giữ truyền thống hiến tế sống như quy tắc của Veda và Balamon.


Trong nghi thức hiến tế châu Âu, người ta thường phân làm 4 kiểu hiến tế:


- Cấp thấp nhất là hiến tế vật sống "không có máu": nó bao gồm các bò sát và các động vật giáp xác, đôi khi được tính luôn cả cây cỏ và khoáng vật ... Thường những thứ này được lập thành một ma dược và sau đó hiến tế. Loại ma dược này sau đó được thiêu, đổ xuống nước, chôn xuống đất hay để phơi khô. Sự phối trộn giữa các thành phần này trong ma dược là bí mật của hiến tế. Nhiều công thức ma dược này đã được in rộng rãi thành sách, và đôi khi được đưa thực sự lên phim ảnh. Những ma dược này đôi khi có tác dụng y học rõ rệt, và là nền tảng của các nền y học cổ. Các thầy bùa thường chữa các chứng bệnh thông qua các hiến tế này. Một hình thức hiến tế tương tự là uống nước thánh ở châu á.


- Cấp hiến tế cao hơn là hiến tế vật sống "có máu": nó bao gồm các loại động vật bốn chân hoặc có cánh. Nghi thức thông thường đối với các loại vật hiến tế này là nó được tế sống. Tùy vào loại mà người ta chia tách con vật thành các phía đối xứng cụ thể như sau: loại có cánh chia làm ngũ giác đều (2 cánh, 2 chân, đầu); loại bốn chân có đuôi chia làm lục giác đều (4 chân, đuôi, đầu) hoặc thành ngũ giác đều (4 chân, đầu) được cố định bằng đinh. Trung tâm của các lục giác đều và ngũ giác đều này thường là vị trí bụng hoặc phổi. Người ta dùng dao tế lễ đâm vào bụng để rút máu xuống khai. Máu và xác của vật tế sau đó sẽ xử lý tùy theo tính chất và quy ước của đấng linh thiêng. Thông thường, nếu đấng thuộc lửa thì đốt thành tro, nếu đấng thuộc nước thì cho xuống suối hay cho ra biển, nếu đấng thuộc khí thì để phơi khô trên cao, nếu đấng thuộc đất thì chôn xuống nền. Tuy nhiên, gần như không có quy tắc chung nhất cho việc xử lý này. Lễ hiến tế đôi khi yêu cầu cắt yết hầu để lấy máu chứ không phải ở bụng. Trong nhiều ghi chép khác, thì cái xác hiến tế có thể được phân phát cho mọi người trong giáo phái hay cộng đồng.


- Cấp hiến tế kế tiếp được xem là cao quý, hiến tế "người": giống như phép hiến tế đông vật ở trên, trừ việc đây là hiến tế người. Việc hiến tế người, có thể xem là cấp hiến tế đặc biệt, dành cho những giao ước "duy nhất một", hoặc các giao ước quang trọng. Các giao ước thuộc loại thứ ba (sử dụng dấu hiệu giao ước là đồ vật) thường kèm theo là sự hiến tế người, và là sự hiến tế một lần duy nhất ngay lúc lập giao ước, do đó, các giao ước thuộc loại thứ ba rất mạnh. Các giao ước cho cộng đồng hay toàn giáo phái cũng thường bắt buộc phải hiến tế bằng người sống, vì đó là những giao ước lớn và quan trọng. Một định dạng khác của loại hiến tế này là hiến tế tù binh, trong giao ước chiến tranh với các đấng linh thiêng. Những hiến tế đẫm máu này có thể lên đến hàng ngàn nhân mạng, để đổi lấy sự trợ giúp của các đấng trong chiến thắng.


- Cấp hiến tế "linh hồn": là một kiểu hiến tế không thông thường. Rất ít tài liệu mô tả các hiến tế dạng này. Hiến tế linh hồn là sự phục tuân phục của cộng đồng, cá nhân đối với đấng linh thiêng, đem hết linh hồn mình phục vụ cho ý muốn của đấng linh thiêng. Có thể xem đức tin trong thiên chúa giáo hay phật giáo là một kiểu hiến tế. Sự hiến tế này kéo dài cho đến con cháu sau này. Kiểu hiến tế linh hồn hiện vẫn còn đang tranh cãi về cách phân biệt, sự hiệu lực. Một tranh cãi khác liên quan đến việc đồng nhất/không đồng nhất đức tin trong hiến tế này. Nói cho cùng thì hiến tế linh hồn là một kiểu hiến tế ảo, sự tuân phục không phải lúc nào cũng rõ ràng, vì vậy sự hiệu lực của nó vẫn không dễ xác định được.



Bức tranh Jepth hiến tế con gái của danh họa Charles Le Brun

5. Thuật Tiên Tri và Giao Ước


Tarot cũng giống như runes hay Ouija là các công cụ giao tiếp với đấng linh thiêng. Mỗi công cụ giao tiếp này có mức độ chính xác hay cách đoán nhận không đồng nhất. Các công cụ này nếu thực hiện trong việc tiên tri thì nó có tương ứng một phương pháp tiên tri. Tarot có phương pháp tiên tri tên Taromancy. Công cụ tiên tri bản thân nó không phải giao ước. Vì vậy cũng không thể có bất kỳ đấng linh thiêng nào ngụ trong đó cả. Giao ước với đấng linh thiêng để tiên tri là một vấn đề rất cổ chưa. Như tôi đã nói ở các phần trước, các đấng linh thiêng không giống nhau, và có những pháp lực khác nhau. Không phải mọi đấng linh thiêng đều có thể lập giao ước tiên tri. Danh sách các đấng linh thiêng phục vụ việc tiên tri đã từng được liệt kê ở nhiều tài liệu. Người ta có thể liệt kê được khoảng 40 đấng linh thiêng liên quan đến việc tiên tri. Trong số đó, một số đã được lên phim ảnh như Volac, Satan, Bahomet, Bael, ... Trong số này có những đấng rất dễ giao ước, một số thì không. 


Làm sao để lập giao ước ? Câu trả lời hẳn là khó mà thỏa mãn được. Muốn lập giao ước cần phải có đủ kiến thức về tên của đấng, thuộc tính đấng, cách hiến tế ...Vì vậy, đối với  người muốn đào sâu về thuật tiên tri trong quỷ học, người ta cần phải chọn ra những cái tên đấng phù hợp với mục đích của mình. Gọi tên và thực hiện các nghi lễ lập giao ước, sau đó sử dụng sự triệu gọi giao ước để tiên tri. Và tất nhiên là thực hiện hiến tế đầy đủ. Nếu người đó là một người có năng lực cảm nhận đấng thì có thể xem là đi được nửa quảng đường. Trường hợp, nếu người đó không phải là một người có năng lực cảm nhận đấng thì có vài con đường có thể chọn. Người đó có thể gia nhập một giáo phái hay hội nhóm nào đó, để được chỉ dạy và tiếp thu các giao ước có sẵn và tìm kiếm các giao ước cao hơn. Người đó cũng có thể nghiên cứu về các giao ước cổ, để khôi phục lại các giao ước cổ từ đó sử dụng cho bản thân mình. Con đường cuối cùng, chính là tự mình lập giao ước và phát hiện đấng. Điều này cực kỳ khó khăn và gian nan, người đó phải tự mình tìm hiểu tất cả những kiến thức để có thể nhận biết sự hiện diện của các đấng, giao tiếp với các đấng và hiến tế các đấng một cách đúng cách. Một con đường nhỏ nữa có thể sảy ra, đó là đấng linh thiêng đề nghị với bạn một giao ước, thế là tiện nhất ;), nhưng nhớ điều tôi đã nói, chơi dao mà không có kiến thức, sẽ dễ đứt tay.


Đối với các tư tế, hay những người đã am hiểu sâu về quỷ thuật có một cách thú vị, đó là dùng cách giao ước chế ngự để lập thành dấu hiệu giao ước dạng thứ ba (dấu hiệu giao ước là đồ vật) và vật giao ước này chính là bộ bài Tarot. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được. Tuy nhiên, đó là trò chơi nguy hiểm và chỉ dành cho những ai đã am hiểu sâu sắc về những huyến bí trong nghệ thuật giao ước. Có vài vấn đề rắc rối trong trò chơi này. Thứ nhất lá bài quá mong manh và dễ bị tổn thương, điều gì sẽ sảy ra nếu bộ bài bị cháy. thông thường các đồ vật lập thành giao ước dạng thứ ba đều rất bền vững: kiếm, đồ vật kim loại, nhẫn, chứ không bao giờ là các vật dễ phá hủy. Thứ hai không có nhiều những đấng linh thiêng có khả năng tiên tri và lại dễ bị chế ngự. Cần nhắc là giao ước chế ngự là giao ước cực kỳ khó thực hiện, và kèm đó đương nhiên là dấu hiệu giao ước dạng thứ ba cũng vô cùng khó thực hiện. Dù vậy, hãy cứ để giấc mơ của các em nhỏ bay cao bay xa ...


Vấn đề nữa mà tôi nói đến là về công cụ giao tiếp. Tarot là một công cụ giao tiếp mạnh, vì vạy nó có thể giao tiếp với cả 4 nhóm đấng linh thiêng: gods, demon, angel, spirit. Nếu như gods, demon, angel là những đấng linh thiêng cách biệt, và dù đôi khi lầm lẫn, thì tính chất của 3 đối tượng này cũng khá đồng nhất. Trường hợp còn lại là Spirit thì phức tạp hơn rất nhiều. Tarot hoàn toàn có khả năng giao tiếp với spirit, nhưng spirit không thể báo trước tương lai; Spirit là linh hồn oán giận, nó chỉ có thể cho ta biết những gì mà nó đã chứng kiến. Chỉ có angels, gods, demons là có thể báo trước tương lai. Demon thì lại có một đặc thù khác, demons không chỉ đoán trước mà còn thực hiện lời đoán đó. Có nghĩa là điều demon tiên tri được sở dĩ đúng là vì chính nó đi làm việc đó cho đúng. Đó là lý do vì sao khi phát hiện một người bị Volac nhập, phải lập tức bịt miệng người bị nhập lại, bất cứ ai được volac nhập cũng có thể tiên tri trước cái chết của người khác, vì chính Volac sẽ thực hiện việc đó. Đó có thể là tiên tri nếu nhìn từ bề ngoài, nhưng thực ra, đó là kiểu giết người ! Tarot còn có tác dụng để đoán nhận đấng bị nhập khi thực hiện trục quỷ. Vấn đề này phức tạp nên tôi không bàn nhiều hơn. Tarot là công cụ giao tiếp, vì vậy, hãy tập đoán nhận các ý tứ cho đúng khi rút các lá bài. Để một ngày, nếu giao ước được thực hiện, hoặc bạn được đề nghị một giao ước, hoặc bạn lập một giao ước, hoặc đấng linh thiêng đáp ứng giao ước tiên tri của bạn, thì ít nhất, bạn phải biết đấng muốn gì thông qua các lá bài ! Hãy tưởng tượng đến một ngày bạn không giao tiếp bằng lời, hay hình ảnh mà giao tiếp qua các lá bài. Vì vậy, cố gắng hiểu và đọc lá bài một cách chính xác là một cách chuẩn bị tốt cho sự tiến bộ của bạn sau này.



 Noah's Sacrifice của danh họa Daniel Maclise

6. Kết luận


Hi vọng chuỗi 2 bài về Tarot và giao ước này giúp cho các bạn có được cái nhìn tương đối đầy đủ về vấn đề Tarot và quỷ học. Tôi cũng không biết phải nói gì hơn bằng chúc bạn có được một nền tảng kiến thức vững chắc, và đạt được những điều mình mong muốn.


Một lần nữa xin nhắc lại, những kiến thức này tôi không có nghĩa vụ dẫn nguồn (khác với các bài khác của tôi). Những bạn tìm đến để hiểu thêm về vấn đề này, tôi sẵn sàng trả lời ở chừng mực có thể cho phép. Những bạn tìm đến để thử thách hay kiểm tra kiến thức của tôi thì xin đừng quấy rầy. Cảm ơn.


Đọc lại:
Tarot và Giao Ứớc (P1)

Xem thêm:
The Devil - Ác Quỷ trong Tarot
Tarot qua Cái Nhìn của Thiên Chúa
Satan và Bói Toán 

Phillippe NGO, sáng lập Tarot Huyền Bí, một người nghiên cứu Tarot tại Pháp.
Đọc tiếp »
Trang chủ