Tarot Huyền Bí Blog thủ thuật
10/10 1500 bình chọn

Archive by date

Carl Jung và Tarot

item-thumbnail

Tiểu dẫn: Bài này có một phần được dịch từ trang nhà của Mary.K.Greer tập trung chủ yếu về các trích dẫn của Jung liên quan đến Tarot, cũng như các lập luận của ông. Phần dịch được thực hiện bởi  Nicholas Famel (cộng tác viên của Tarot Huyền Bí) và hiệu đính bởi tác giả Tarot Huyền Bí. Chân thành cảm ơn đến  Nicholas Famel vì đã dành thời gian quý báu của bản thân để giúp đỡ cộng đồng Tarot.

Bài chia thành 3 phần. Phần đầu là Jung và Tarot, được dịch từ bài "Carl Jung and Tarot" của Mary.K.Greer, phần này có thể nói là tập hợp đầy đủ nhất các tư liệu liên quan đến Jung và tarot, là nguồn tham khảo chính nếu muốn đi sâu vào quan điểm của Jung về Tarot. Phần hai là Tư tưởng của Jung, là phần tổng hợp các ý niệm chính của Jung liên quan Tarot và bói toán nói chung do tôi viết. Cuối cùng là phần Kết luận. 

Chú ý rằng phần đầu tiên là các đoạn trích dẫn của Jung có liên quan Tarot, nói thẳng ra là tương đối khó hiểu, ngay cả với các sinh viên ngành tâm lý. Vì vậy, bạn có thể bỏ qua để xem lại sau khi coi phần hai. 

Phần hai là phần tổng hợp quan điểm do tôi viết và tôi cố tình viết một cách tương đối hệ thống và dễ hiểu nhất có thể. Đặc biệt là trong phần này, tôi ghi rõ ra các luận điểm chính của Carl Jung trong huyền học nói chung và kèm theo cả dẫn chứng trong Tarot cho từng luận điểm. Dù đã cố gắng giảm tải và tóm gọn nhất các tư tưởng của Carl Jung, các ý vẫn không phải hoàn toàn dễ hiểu, vì vậy cần ít nhiều cố gắng của đọc giả. Đọc giả sau khi hiểu rõ các luận điểm này, có thể quay lại các đoạn trích ở phần một để hiểu rõ hơn ý khai triển của Carl Jung.

Hi vọng sau bài này, các bạn sẽ không còn bất kỳ thắc mắc nào liên quan đến trường phái Carl Jung và Tarot.

1. Jung và Tarot

Dù cho nhiều chuyên gia Tarot đã áp dụng phương pháp tâm lý Jung trong việc nghiên cứu Tarot của mình, nhưng có một vấn đề thú vị đặt ra là liệu chính Jung có biết bất cứ gì về Tarot hay không ?. Thực tế là ông biết và dù chỉ dành ra được vài tiếng trong một ngày nhưng ông vẫn tìm hiểu khá sâu về nó. Đây là một vài bài trích tham khảo của ông về các lá bài, dù cho kiến thức về Tarot của ông, mang tính lịch sử thời đó, có một chút thiếu sót.


Carl Jung (1875-1925)

Ghi chú: tôi đã thêm vào các bản ghi chép ngắn gọn của Jung về Major Arcana.

Vào ngày 16 tháng 9 năm 1930, Jung đã viết cho bà Eckstein:

“Vâng, tôi biết về Tarot. Theo như tôi biết đó là một kiểu bài cổ xưa đầu tiên được lịch sử ghi nhận lại và từng được người dân du mục ở Tây Ban Nha sử dụng. Chúng còn được dùng cho mục đích bói toán.”

Jung không phải lúc nào cũng đúng: Các nghiên cứu lịch sử ngày nay không ủng hộ việc các lá bài được người dân du mục (Gypsy) sử dụng đầu tiên, cũng như các lá bài Tarot là thứ cổ xưa nhất từng được biết đến. Cái bàn dùng để chơi bài truyền thống (có nhiều loại)  xuất hiện trước Tarot khoảng 50 đến 75 năm. Tarot lần đầu tiên có mặt ở miền Bắc nước Ý vào khoảng năm 1440.] 

Vào ngày 1 tháng 3 năm 1933, Carl Jung đã nhắc đến Tarot trong buổi hội thảo, ông đã phân tích hình ảnh của nó dựa trên việc kích hoạt trí tưởng tượng, điều đó chứng minh rằng ông quen thuộc với các hình ảnh này hơn chúng tôi đã nghĩ trước đó. Đây là một bản sao lại những lời ông từng nói:

“Một trong những khái niệm kỳ lạ dựa trên các kinh nghiệm huyền bí trong Tarot, đó là nó  luôn chứa đựng tính lưỡng tính (sự họp nhất của hai mặt trái ngược nhau trong một cá thể lá bài - từ gốc là hermaphrodite). Đó là một bộ các lá bài, ban đầu được dân Gypsy sử dụng. Nếu tôi nhớ không lầm thì những lá bài hiện đang được trưng bày ở Tây Ban Nha có nguồn gốc từ thế kỉ 15. Những lá bài này chính là nguyên mẫu của bộ bài chúng ta sử dụng ngày nay, trong đó có hai màu đỏ và đen đại diện cho sự đối lập, và chia ra làm bốn phần – chuồn, pích, rô, và cơ – cũng có liên quan đến các biểu tượng riêng lẽ mang tính tượng trưng. Chúng là các hình ảnh, ký hiệu tâm linh gắn liền với chính người chơi, giống như là tiềm thức của người đó đang đùa giỡn với những hình ảnh bên trong lá bài. Chúng kết hợp lại theo cách nào đó, và các kiểu kết hợp khác nhau tương ứng với sự phát triển qua các sự kiện chính trong lịch sử nhân loại. Các lá bài nguyên thủy của Tarot bao gồm các lá bài truyền thống, the king (nhà vua), the queen (hoàng hậu), the knight (hiệu sĩ), the ace (Ách), v.v… - chỉ có các hình ảnh khác biệt nhau đôi chút – và bên cạnh đó còn có 21 lá bài chứa các biểu tượng, hình ảnh mang tính tượng trưng cho các tình huống khác nhau.Ví dụ, biểu tượng mặt trời, hay biểu tượng người đang ông bị treo ngược với  hai bàn chân ở phía trên, tòa tháp bị sấm sét đánh vào, hay vòng quay định mệnh, v.v… Những hình ảnh nguyên mẫu đó, cùng với việc mô tả tính chất khác biệt nhau, gắn kết nó với các yếu tố có sẵn trong tiềm thức, và qua đó nó có thể áp dụng phương phát trực quan nhằm thấu hiểu dòng chảy sinh mệnh, thậm chí có thể dự đoán các sự kiện xảy ra ở tương lai, dựa vào các nghiên cứu về sự bổ túc giữa nó với tình thế hiện tại. Đây là phương thức tương tự như I Ching (Kinh Dịch), phương pháp bói toán của người Trung Hoa ít nhất cũng cho phép nghiên cứu chính xác hoàn cảnh thực tại. Bạn thấy đó, con người luôn cảm thấy phải tìm cách để thâm nhập vào tiềm thức của mình để tìm ra được ý nghĩa của hoàn cảnh thực tế, bởi luôn có một sự sắp đặt tương tự , thậm chí giống hệt nhau giữa hoàn cảnh phổ biến có thể gặp và tiềm thức chung của nhân loại."


Lá bài Le Diable

“Bây giờ là một hình ảnh trong Tarot được gọi là Le Diable (Ma quỷ) thể hiện sự lưỡng tính của tư tưởng. Đó là thời hoàng kim trong giả kim thuật. Nói theo cách khác, đó là một nổ lực ma quái muốn hợp nhất các mặt đối lập hiện diện trong tâm trí người Kito giáo, cái gì đó xấu xa đến nỗi không được phép hiện diện, cái gì đó thuộc về ma thuật hắc ám.”

Hai đoạn trên trích từ Visions: Notes of the Seminar given in 1930-1934 [ dịch Ảo ảnh: Các ghi chú trong buổi hội thảo được đưa ra năm 1930 – 1934)]  của C. G. Jung, được biên tập bởi Claire Douglas. Tập 2. (Princeton NJ, Princeton University Press, Bollingen Series XCIX, 1997), trang 923.

Trong The Archetypes of the Collective Unconscious (Nguồn gốc tiềm thức chung) (CW, Tập 9:1, đoạn 81), Jung viết:

“Nếu muốn thấy rõ bức tranh toàn cảnh tái hiện quá trình tượng trưng hóa, thì tập hợp các hình ảnh trong giả kim thuật là ví dụ tiêu biểu. . . . Dường như tập hợp hình ảnh trong các lá bài Tarot có nguồn gốc xa xôi gắn liền với các sự chuyển đổi nguyên thủy, một quan điểm của tôi trong bài thuyết trình rất rõ ràng được duyệt bởi giáo sư [Rudolph] Bernoulli. Quá trình tượng trưng hóa là sự thử thách bên trong các hình ảnh và thuộc về các hình ảnh. Sự phát triển của nó thường thể hiện lối kết cấu  enantiodromian*  giống như các trích dẫn trong I Ching, và qua đó thể hiện một  nhịp điệu biến đổi lẫn nhau về xấu và tốt, mất và còn, tối và sáng.” [*một thuật ngữ của người Hy Lạp được Jung sử dụng để chỉ ‘những thứ có khả năng lật ngượt lại và trở thành mặt đối lập của chúng.’].

Giải thích thêm của tác giả Tarot Huyền Bí: thuật ngữ này ám chỉ sự chuyển biến từ một mặt đối lập tăng trưởng đến khi biến thành mặt đối lập của chính nó, nó chỉ ra khả năng rằng một biểu tượng không chỉ biểu trưng cho chính nó mà còn biểu trưng cho mặt đối lập của chính nó]

Dierdre Bair kể lại chi tiết trong cuốn “Jung: A Biography” (Tiểu sử về Jung) (Nhà xuất bản Little Brown, 2003, trang 549) rằng trong năm 1950 Jung đã lần lượt giao cho bốn thành viên trong Câu lạc bộ Tâm lý học của ông các phương pháp nghiên cứu “trực quan, phương pháp đồng bộ hóa’. Hanni Binder đã nghiên cứu về Tarot và dạy ông cách bói bài. Họ đã xác định rằng bộ bài Ancien Tarot de Marseille của nhà Grimaud  “là bộ bài duy nhất sở hữu những đặc tính và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về biểu tượng học được ám chỉ đến các đoạn trích do ông lượm nhặt được từ trong giả kim thuật.”  Công trình nghiên cứu của Hanni Binder không có ý nghĩa nhiều với Jung và có thể thấy được điều này qua bài thuật lại của bà được lưu trữ tại Viện Nghiên Cứu Jung ở New York. Nhóm nghiên cứu giải tán vào khoảng năm 1954.



Marie-Louise von Franz

Điều gì nằm ở phía sau nổ lực của Jung khi thu thật tất cả cái tài liệu này? Marie-Louise von Franz đã thuật lại trong Psyche and Matter (Tinh Thần và Vật Chất) (1988) vào những năm cuối đời của ông:

“Jung đã đưa ra gợi ý cho cuộc nghiên cứu rằng trong nhiều trường hợp cá biệt, các lớp biểu tượng vô thức cần phải được tập hợp lại để giải nghĩa – ví dụ như sau một tai nạn nghiêm trọng, hay ở giữa tình trạng xung đột và li dị -  do có sự mong muốn của người hỏi  tham gia vào quá trình tiên tri: I Ching, bài Tarot, lịch bói toán của người Mexico, lá số tử vi hay phong thủy. Nếu giả thuyết của Jung chính xác thì kết quả của tất cả các quá trình này cần phải được tổng hợp lại. . . [*một thuật ngữ của Jungian có nghĩa là 'các yếu tố gắn liền với nhau trong tiềm thức vì vậy chúng  tạo ra một khuôn mẫu có ý thức dễ dàng nhận biết được liên quan đến các mối quan hệ.' Christine Houde thêm vào, "Những vấn đề quan trọng khi tập họp lại sẽ được kích hoạt trong tâm trí của mỗi cá nhân, nơi nó cố gắng biến thành kinh nghiệm về điều gì đó] Giải thích của tác giả Tarot Huyền Bí, khái niệm này ám chỉ sự nối kết giữa các lớp biểu tượng tiềm thức, mà dựa vào mong muốn cá nhân, các biểu tượng tiềm thức đó được kết hợp có chủ ý (dù là trong tiềm thức và không thể khống chế), từ đó tạo nên các kinh nghiệm giả. Nó khác với sự kết hợp tự nhiên giữa các lớp này và dòng chảy nhân loại, tạo nên các kinh nghiệm có thực trong đời sống.

“[Cuộc điều tra này gồm] việc nghiên cứu các tai nạn bằng cách nghiên cứu sự hội tụ . . . của các phương thức khác nhau, nhờ đó chúng tôi có thể tìm hiểu xem cái “suy nghĩ cá nhân”(từ gốc là Self “thought”) trong tai nạn cụ thể này là gì. . . . Các phương pháp mơ hồ khác nhau trong kỹ thuật bói toán giống như việc tìm kiếm trong “các đám mây nhận dạng biểu tượng” (từ gốc là “clouds of cognition”), theo Jung, chính là hình thành nên “nguồn tri thức thuần khiết. (từ gốc là absolute knowledge)”.

Von Franz giải thích thêm rằng “các đám mây nhận dạng biểu tượng” của Jung đại diện cho phần thông tin nhận thức được trong một hỗn hợp to lớn các thông tin nhiễu  trong tiềm thức, được gọi là “nguồn tri thức thuần túy”, nằm bên trong tập hợp tiềm thức chung. Những hình ảnh này, dựa trên quan điểm về “sự nhận thức cái tôi nhiều hay ít,” trở nên thiếu trọng tâm và chi tiết. Như vậy, tư tưởng thật sự được coi là “ một kinh nghiệm sống ảnh hưởng đến tình cảm lẫn suy nghĩ”. Bà tiếp tục:

“Những hình ảnh về mộng tưởng thuở ban sơ và các hình ảnh về những câu chuyện thần thoại thoại vĩ đại và tôn giáo vẫn còn liên quan đến chúng [là các kinh nghiệm sống đã nói ở trên], dù là một phần nhỏ trong vô vàng các kiến thức thuần khiết chúng ta nhận được hằng ngày, nhưng lại luôn chứa đựng nhiều hơn rất nhiều so với những gì chúng ta nghĩ, trừ khi giải thích thật chi tiết. Chúng luôn giữ lại một lượng kiến thức rất lớn và đầy bí ẩn dường như luôn cố tình để lộ ra nhiều ảnh hưởng hơn chúng ta biết.”

Vào ngày 9 tháng 2 năm 1960, một năm trước khi chết, Jung đã viết thư cho ông A. D. Cornell kể về điều thất vọng khiến cho cuộc thí nghiệm vĩ đại của ông phải kết thúc:

“Dưới các điều kiện hiện nay, chúng ta có thể thử nghiệm các nguyên mẫu : như  “thí nghiệm chiêm tinh học” của tôi chẳng hạn. Thực tế đây là một mục đích chính yếu khi chúng tôi tiến hành các thí nghiệm tại Viện Nghiên Cứu C. G. Jung ở Zurich, bằng cách sử dụng các kiểu bói trực quan được biết đến trong lịch sử, ví dụ như các phương thức dùng phương thức đồng bộ hóa (như chiêm tinh học, thuật phong thủy, các lá bài Tarot, và I Ching). Nhưng chúng tôi lại có quá ít cộng sự và thiếu thốn các phương tiện, nên chúng tôi không thể tiếp tục và buộc phải dừng lại.”

Mục đich của thí nghiệm này được Jung mô tả trong cuốn Journal of Parapsychology (Hành trình tìm đến các hiện tượng tâm lý học) (Tháng 3 năm 1998): trong bài viết mang tên “The Rhine-Jung letters: distinguishing parapsychological from synchronistic events – J.B. Rhine; Carl Jung” (Những lá thư của Rhine-Jung: phân biệt những hiện tượng tâm lý từ các sự kiện đồng nhất) bởi  Victor Mansfield, Sally Rhine-Feather, James Hall. Các tác giả này đưa ra kết kết luận:

“Một thí nghiệm phù hợp với tiêu chí của chúng tôi : không ràng buộc, kiểm soát hay thao túng, cho thấy những khó khăn của riêng nó. Ví dụ, làm sao chúng tôi thuyết phục mọi người rằng bói bài là quy trình hội tụ, rằng các chủ đề đã bị chọn lựa ngay khi các nguyên mẫu tụ hội lại, rằng cho dù nội dung bị mất đi vẫn không làm sai lệch lời tiên tri, và rằng mọi yếu tố khác (ngoài tiềm thức) đều không làm thay đổi kết quả bói toán? Những vấn đề này không phải không thể khắc phục được, nhưng cần phải thực hiện nhiều thứ còn hơn cả việc “đi tuyên truyền để cải đạo”, thí nghiệm này hay bất kỳ cái nào khác đều phải được hoàn thành đầy đủ và chặc chẽ để đảm bảo rằng các nhà khoa học sẽ hài lòng với tất cả dữ liệu, phân tích nội dung và vân vân.”


Art Rosengarten và Eden Gray

Vào năm 1984, Art Rosengarten (xin chỉ ra ở đây cùng với tác giả của bộ Tarot, Eden Gray) đã tiến hành một cuộc thí nghiệm - tương tự như như cuộc thí nghiệm đã được Jung mô tả khi so sánh về Tarot, TAT và việc giải thích giấc mơ - để phục vụ cho đề tài nghiên cứu trong luận án tiến sĩ của ông. Bạn có thể tìm hiểu thêm về cuộc thí nghiệm này trong quyển sách của ông, Tarot and Psychology: Spectrums of Possibility (Tarot và Tâm lý học: Tập hợp những điều có thể xảy ra) Tôi nghĩ Jung chắc sẽ hài lòng.

Vậy Chúng ta phải làm gì với tất cả vấn đề này?

Dù không phải là trọng điểm trực tiếp trong nghiên cứu của Carl Jung. Tuy nhiên,  Tarot đã được công nhận như các nguyên mẫu biến đổi (dịch từ archetypes of transformation) giống như điều ông đã tìm thấy trong các truyện thần thoại, các giấc mơ và thuật giả kim, và cũng như có hiểu được các đặc điểm riêng biệt của việc tiên tri tương tự với I-Ching và chiêm tinh. Điều quan trọng nhất, Jung tin con người có thể sử dụng “khả năng trực giác” để hiểu – qua việc Tarot phản ánh các tiềm thức chung thành một “đám mây tri thức” – có ý nghĩa trong điều kiện thực tại ngày nay.

Nhìn qua các lời hồi đáp của Jung về Major Arcana ở đây.

Đây là một chút trong cuộc phỏng vấn Jung về giả kim thuật và tiên đoán tương lai: “Chúng ta có thể tiên đoán tương lai khi chúng ta biết được cái cách khoảng khắc hiện tại phát triển từ quá khứ.”



2. Tư Tưởng của Jung

Phần trước là tập hợp các trích dẫn của Jung liên quan tarot, dù vậy, nó không thể nói rõ ý tưởng chính của ông trong vấn đề này. Phần này thể hiện tư tưởng của Jung theo cách nhìn mang tính cá nhân của Tác Giả Tarot Huyền Bí. Nó có thể không phải là quan điểm phổ biến, được công nhận rộng rãi. Nó là cách nhìn thông qua sự nghiên cứu của tác giả về Carl Jung.

Carl Jung sinh năm 1875, mất 1925, là nhà tâm lý học nổi tiếng. Ông là người khai sinh ra ngành tâm lý học phân tích, và là nhà tâm lý học đầu tiên hoạt động tâm lý trong lĩnh vực huyền học: biểu tượng giấc mơ, giả kim thuật, chiêm tinh, I Ching...

Lý thuyết của ông đối với khoa học huyền bí theo tôi được tóm gọn như sau: "Quá trình cá nhân hóa là quá trình biến đổi mà ở đó các nền tảng vô thức của cá nhân và cộng đồng được chuyển thành hữu thức [có ý thức] thông qua các biểu tượng nghĩa của giấc mơ, các hoạt tưởng [các hành vi huyền bí và thần thoại nói chung, dịch từ chữ active Imagination], các tự huyễn [dịch từ chữ free association], từ đó trở thành tính cách con người. Đó là quá trình hoàn toàn tự nhiên để tâm lý được kết cấu nên. Quá trình cá nhân hóa là phương thuốc thần thánh, hiệu quả cho sức khỏe của bất kỳ cá nhân nào, dù ở phương diện tâm hồn hay thể xác" - Trích cuốn Symbols of Transformation: An analysis of the prelude to a case of schizophrenia;1962. 

Nguyên văn tiếng Anh: "Individuation is a process of transformation whereby the personal and collective unconscious is brought into consciousness (by means of dreams, active imagination or free association to take some examples) to be assimilated into the whole personality. It is a completely natural process necessary for the integration of the psyche to take place. Individuation has a holistic healing effect on the person, both mentally and physically. "- Symbols of Transformation: An analysis of the prelude to a case of schizophrenia (Vol. 2, R. F. C. Hull, Trans.). New York: Harper & Brothers; 1962.

Chú ý là tôi tập trung vào tư tưởng của ông liên quan đến huyền bí học, chứ không tập trung vào tư tưởng của ông liên quan đến tâm lý học; vì vậy, câu trên không phải là phần tóm gọn của tư tưởng tâm lý Carl Jung, mà chỉ là phần tóm gọn của tư tưởng tâm lý Carl Jung cá biệt trong huyền bí học.


Quy trình giả kim trong Ramon Llull

Luận điểm của Jung trong huyền bí học được thể hiện ở các tiêu đề luận như sau:

Thứ nhất, Sự biến đổi từ vô thức cá nhân (personal unconscious) và vô thức cộng đồng (collective unconscious) thành ý thức thực tại (consciousness). Trong đó, thần bí học, tâm linh học, huyền bí học nằm trong phần vô thức cộng đồng. Quá trình đó được thực hiện thông qua các liên tưởng biểu tượng: giấc mơ, hoạt tưởng và tự huyễn. Tarot, cũng như giả kim, hay chiêm tinh nằm trong nhóm hoạt tưởng. Với ông, quá trình giả kim, quy trình chiêm tinh, hành trình chàng khờ chính là quá trình biến đổi của nhân cách. Xét riêng trong Tarot, mỗi một phân đoạn trong quá trình nhân cách tương ứng với một phân đoạn trong hành trình chàng khờ, hay nói cách khác, tương ứng với một lá bài (hoặc một nhóm lá bài).

Thứ hai, quá trình biến đổi này được phân thành 5 giai đoạn, mỗi giai đoạn tượng trưng bằng một nguyên mẫu (archetype). Mỗi nguyên mẫu là một hình ảnh tiêu biểu cho ham muốn và nhu cầu của mỗi giai đoạn, và nó nằm trong vô thức cộng đồng và vô thức cá nhân. Vô thức cộng đồng là các kiến thức hoặc định kiến có sẵn, hoặc thông qua kinh nghiệm, nhưng "trong suốt" đối với nhận thức. Vô thức cá nhân là các kiến thức hoặc định kiến có sẵn bởi chính cái "tôi" hay "siêu tôi" thúc giục. Năm nguyên mẫu đó là: The Seft (biểu thị bằng biểu tượng mặt trời, hình vuông,...), The Shadow (biểu tượng bằng hình ảnh Satan hay Devil...), The Anima và The Animus (biểu tượng bằng Hemes, Eva, Adam, Mẹ Maria...), The Senex (biểu tượng bằng hình ảnh Hiền triết, hòn đá phù thủy, thằng khờ...). The Senex cũng đồng thời là The Seft. Phần ý nghĩa biểu tượng và ý nghĩa của sự biến đổi biểu tượng sẽ nói ở bài khác (vì quá dài dòng). Trong riêng Tarot, 5 hình mẫu này đại diện cho các lá bài, mỗi lá bài có thể chứa đồng thời, hay duy nhất một hình mẫu. Ví dụ: lá The Sun thể hiện The Seft, lá The Devil thể hiện The Shadow, lá High Priestess thể hiện The Anima, lá The Fool hay The World thể hiện The Senex... Một phần quà bất ngờ cho ai nói đúng được cả 78 lá bài.

Thứ ba, quá trình biến đổi này được thực hiện thông qua sự tổng hợp và kết chồng các lớp biểu tượng tùy thuộc vào ảnh hưởng của từng nguyên mẫu trong các lớp biểu tượng đó. Jung tin rằng trái tim của tôn giáo là hành trình biến đổi (dịch từ chữ "journey of transformation"), và tôn giáo hay thần bí học đều mang mục đích chung là làm cho chúng ta tốt hơn ("well-being"). Điều đó dẫn đến khái niệm rằng: "cái phù hợp" được coi là hành vi được tạo nên bởi sự kết hợp của tiềm thức cộng đồng và tiềm thức cá nhân.   Cá nhân sẽ hạnh phúc nếu hành vi của người đó luôn thỏa mãn được cái tiềm thức cộng đồng (quan niệm của cộng đồng) và tiềm thức cá nhân (quan niệm của cá nhân). Hành vi "phù hợp" đó chính là sự tiến hóa của The Senex (cũng đồng thời là The Seft).  Đó là cuộc hành trình để chạm đến cái "tôi" và đồng thời chạm đến cái "tiên tri" (Dịch từ "It is a journey to meet the self and at the same time to meet the Divine"). Nói cách khác, tiên tri là hình thức tổng hợp của tiềm thức cá nhân và tiềm thức cộng đồng thông qua các biểu tượng. Lời giải đoán không gì khác hơn chính là hình ảnh mơ hồ của "cái phù hợp". Nếu người được bói nghe theo lời giải đoán, chính là thực hiện theo "cái phù hợp"; và vì thực hiện theo cái phù hợp, nên người đó hạnh phúc vì cái phù hợp sẽ thỏa mãn được cái tiềm thức cá nhân và tiềm thức cộng đồng.

3. Kết Luận

Bài viết tương đối dài, nhưng trong này, đã tổng hợp hết các vấn đề liên quan giữa Jung và Tarot cũng như bói toán nói chung. Đây là phần tổng hợp tương đối hoàn chỉnh nhất về quan điểm và tư tưởng của Jung áp dụng trong tarot.

Dự định viết bài này mãi, đến hôm nay mới trình bày được kỹ lưỡng và đầy đủ. Sau này bất kỳ ai có thắc mắc về vấn đề này thì cứ đọc kỹ lại bài viết là được.

Tham khảo thêm: 




Phillippe Ngo, sáng lập Tarot Huyền Bí, một người nghiên cứu Tarot tại Pháp.


Đọc tiếp »

Phân Tích Phiên Bản Paul Marteau 1930 - Phần 09: THE JUSTICE

item-thumbnail

Tiểu dẫn: Trong hệ thống Tarot de Marseille, bộ Tarot de Nicolas Conver đóng vai trò rất quan trọng vì nó là bộ duy nhất được kế thừa bởi các nhà phát hành sau này. Có thể kể ra: phiên bản Paul Marteau 1930, Camoin Jodoromsky 1997, Tarot de Milleminium 2000, Tarot de Frornoy... Đặc biệt là phiên bản chuẩn 1930 với tên Ancien Tarot de Marseille. Đa số các bộ khác đều được phân tích chủ yếu trong các chuyên khảo, thì bộ này chủ yếu được phân tích ở sách cơ bản và thông dụng. Vì vậy, việc phân tích nó cũng là một điểm đáng chú ý. Loạt bài này có mục đích giới thiệu một cách nhìn tương đối tổng quát về các lá bài của phiên bản này.

Ghi chú: Các bài viết sau đây là kết quả từ sự cộng tác giữa Hoàng Hiền (viết chính) và tác giả blog. Bài viết chủ yếu mang quan điểm của Hoàng Hiền. Gửi lời cảm ơn đến cộng tác viên Hoàng Hiền vì đã đóng góp cho cộng đồng Tarot Việt Nam những bài viết bổ ích.


Phần 09: LA JUSTICE
(The Justice)


Đây là Arcana chính thứ tám trong bộ bài Tarot, là quân bài tượng trưng cho sự công bằng, chính trực. Con số đại diện cho quân bài này là số tám, cũng là con số của sự cân bằng vũ trị. Trong trường phái Pythagore, con số tám là con số đại diện cho công lý và không ngạc nhiên khi lá bài thứ tám trong các Arcana chính của Tarot mang biểu tượng của tính công bằng này. Trong đạo Ki tô, con số tám  là con số biểu thị cho sự toàn vẹn bởi lẽ ngày thứ Tám kế sau ngày Sáng thế chính là báo hiệu cho kỷ nguyên tương lai. Lý luận của thánh Augustine  cho rằng:  mọi hoạt động trên cõi đời đều liên quan đến con số bốn, còn linh hồn là con số ba. Qua ngày thứ bảy, đến ngày thứ tám đánh dấu sự sống của những người đức hạnh và tuyên pháp những kẻ vô đạo; thật phù hợp với ý nghĩa của Công lý biết bao.

 Hình ảnh nữ thần Công lý hiện lên đang ngồi trên ngai vàng, đầu đội mũ miện tư pháp, cầm thanh gươm và cái cân cùng đều bằng vàng. Người mặc chiếc váy dài màu đỏ khoác lên trên là chiếc áo choàng xanh lá, mặt nhìn chính diện, nghiêm nghị. Xét trên tổng thể, ba màu đỏ, xanh lam và vàng được phân bố khá đồng đều chứ không quá thiên lệch về màu nào như các lá trước nó. Vị nữ thần Công lý thông tuệ với những sức mạnh (màu đỏ) được ẩn giấu phía sau sự huyền bí, thâm trầm (xanh lam) và nắm giữ thắng lợi cuối cùng của nhân loại (màu vàng).  

Nữ thần Công lý là người công chính vô tư, nắm giữ sự cân bằng và phán xét. Chính vì vậy mà nữ thần phải là một người có được sự đồng điệu, thăng bằng trong cả ba phần: tinh thần, tâm hồn và thể xác. Đạt được đến cái vững bền, thống nhất đầy mực thước giữa tư duy và hành động. Vì lẽ đó, những màu sắc biểu hiện cho tính cách của nữ thần cũng phải đạt đến độ cân đối chuẩn mực. « Người công bằng là cái nền không chuyển lay của thế giới ». Câu nói ấy trong sách « Châm ngôn » dường như chính để ám chỉ sự vững bền này.

Hình ảnh nữ thần Công lý Themis của Thần thoại Hy Lạp có thể thấy ảnh hưởng rất lớn tới biểu tượng này bởi lẽ nữ thân Themis – nữ thần của luật lệ luôn cầm một trên tay phải mình một cái cân để đảm bảo sự công bằng cho xã hội trong khi thanh kiếm trên tay trái của thần sẽ sẵn sàng đâm bất cứ kẻ tội đồ nào vi phạm đức hạnh và pháp luật. Từ đó trở đi, hình ảnh cái cân và thanh kiếm đã là biểu tượng điển hình cho việc thực thi công bằng chốn pháp đình và bức tượng thần Themis trở thành biểu tượng mang tính thế giới đặt hết ở hầu hết các tòa án các quốc gia trên thế giới.

Biểu tượng cái cân từ lâu đời trong các nền văn hóa đã tượng trưng cho sự công bằng, mực thược, sự cẩn trọng bởi lẽ chức năng cân đo của nó phù hợp cho việc xác định mọi hành vi. Hình ảnh cái cân xuất hiện trong nhiều thần thoại, là dụng cụ để xác định tội lỗi mà con người phạm phải lúc ở trần gian, là yếu tố quyết định người đó được lên thiên đàng hay xuống địa ngục. Trong thần thoại người Ai Cập cổ là chiếc cân của thần Osiris, trong Thiên Chúa giáo, người cầm cân là Tổng lãnh thiên thần Michel, trong 12 cung Hoàng đạo có biểu tượng chòm Thiên Xứng ( hay Thiên Bình) là cái cân trời, với ý nghĩa cân bằng cuộc sống. Rõ ràng cái cân vàng trong bức hình cũng như vậy, nó chính là sự cụ thể hóa thứ vô hình thành hữu hình, sự vật hóa tính cân bằng trong mỗi con người ra hình ảnh chiếc cân. Với những ai giữ được chiếc cân thăng bằng, họ sẽ không phải sợ hãi bất cứ điều gì và có nền tảng cực kì vững chắc bởi lẽ trong tư duy của những người theo đạo Do Thái hay Thiên Chúa đều cho rằng: Quỷ dữ luôn luôn bất lực trước những ai mang sự thăng bằng, thanh liêm trong trái tim của mình.

Phân tích về hình ảnh thanh kiếm, ta thấy, nó chính là thanh kiếm của sự phân biệt thiện ác, trừng trị tội phạm chứ không phải là hình ảnh của thanh kiếm chiến tranh bởi hình dáng nó thanh mảnh và trang nhã chứ không thô kệch như những lưỡi kiếm dùng trên chiến trường. Những thanh kiếm xuất hiện rất nhiều trong những truyền thuyết, gắn với những thần linh hoặc anh hùng vĩ đại với cái tên cụ thể, đặc biệt các hiệp sĩ Tây Âu Trung Cổ trong các bản anh hùng ca càng thịnh hành điều này: ví dụ như thanh kiếm Joyeuse nổi tiếng của hoàng đế La Mã thần thánh Charlemagne, hay thanh kiếm Durandal của hiệp sĩ Roland trong « Bài ca chàng Roland » từng là câu truyện nổi tiếng nhất viết về lòng trung thành của các kị sĩ... . Chính sự linh thiêng đó đã khiến thanh kiếm mang biểu tượng cho ánh sáng, chân lý, cho Thần Khải.

Quân bài này chính là sự nhắc nhở nghiêm khắc đối với những ai trên con đường thụ pháp, lợi dụng sai quyền lực của mình. Hình ảnh nữ thần Công lý đánh thức lương tri của con người, cái cân xác định đức hạnh và thanh kiếm sẵn sàng trừng phạt hà khắc kẻ phạm lỗi. Nữ thần sẽ nắm giữ sự cân bằng và mực thước để những ai tiếp tục con đường tìm kiếm tri thức sẽ phải nghiêm khắc kiểm điểm nhắc nhở quyền hạn của bản thân.

Ghi Chú:

Aurielius Augustinus hay Augustine thành Hippo (354 – 450): là một trong những nhân vật quan trọng nhất đóng góp cho sự phát triển của Cơ Đốc giáo phương Tây. Ông được Giáo hội Công giáo phong thánh và công nhận là Tiến sĩ Hội thánh. Trong cộng đồng Kháng Cách (Protestant), nhiều người xem nền thần học Augustine là một trong những nhân tố khởi nguyên của hệ tư tưởng lập nền cho cuộc Cải cách Kháng Cách, đặc biệt là trong giáo lý cứu rỗi và ân điển.

Đọc tiếp »

Hiệu Đính Phương Pháp Biến Dịch của A.E.Waite

item-thumbnail


Tiểu dẫn: Như đã nói ở bài trước (Hiệu đính phương pháp Celtic cổ của A.E.Waite), bài này là bản hiệu đính từ bài dịch của Thanatos CK, một cộng tác viên của trang Tarot Mystery. Đây là phương pháp thứ 2 nằm trong cuốn The Pictoral Key To The Tarot của Waite. 

1. Bản Hiệu Đính

Tráo toàn bộ bộ bàilật một số lá bài, để đảo ngược các đỉnh của chúng.

Hãy cắt bài bằng bàn tay trái của người hỏi.

Chia ra 42 lá đầu tiên trong sáu bộ, mỗi bộ bảy thẻ, lật mặt lên, để 7 lá đầu tiên ở bộ đầu tiên, tiếp sau là bảy lá bộ thứ 2, và tiếp tục như vậy như trong sơ đồ sau đây:




Cầm bộ đầu tiên lên, đặt các lá bài lên bàn thành một hàng, từ phải sang trái, đặt các lá bài của bộ thứ 2 thành hàng và ở phía trên hàng trước và các bộ tiếp sau cũng vậy . Do đó bạn sẽ có bảy bộ mới và mỗi bộ sáu lá, được sắp xếp như sau -



Lấy những lá đầu tiên của mỗi bộ, tráo và trải ra từ phải sang trái, tạo thành 1 hàng 7 lá.

Sau đó nhặt 2 lá tiếp theo từ mỗi bộ lên, tráo và trải chúng ra thành 2 hàng bên dưới hàng đầu tiền.

Nhặt 21 lá còn lại của các bộ lên, tráo và trải chúng ra thành 3 hàng bên dưới những hàng đã xếp.

Bạn sẽ có 6 hàng ngang mỗi hàng 7 lá, sắp xếp chúng theo cách sau đây.

Trong phương pháp này, nếu Querent là giới tính nam, thì được đại diện bởi Magician, và nếu là nữ thì được đại diện bởi High Priestess, nhưng lá bài đại diện này, trong cả 2 trường hợp, không được lấy từ bộ bài cho đến khi 42 lá bài được trải ra, như hướng dẫn ở trên. Nếu lá bài được yêu cầu không tìm được trong số những lá bài trên bàn, nó có thể nằm trong số 36 lá bài còn lại, những lá chưa được xếp ra, và nó nên được đặt một khoảng nhỏ ở bên phải của hàng ngang đầu tiên. Mặc khác, nếu nó ở trong số chúng, nó cũng được lấy ra, đặt như đã nêu, và nhặt một lá từ 36 lá chưa xếp ra còn lại đặt vào chỗ trống để vẫn có 42 lá đặt trên bàn.

Những lá bài được đọc liên tiếp, xuyên suốt từ phải sang trái, bắt đầu từ lá bài số 1 của hàng đầu tiên, cho đến lá ở cực trái, hay là lá thứ 7 của hàng cuối.

Phương pháp này được sử dụng khi không có câu hỏi xác định, khi người hỏi muốn biết chung chung những việc liên quán đến cuộc sống và số phận của họ. Nếu anh ta muốn biết điều gì có thể xảy ra trong một thời gian xác định, thời gian này nên được xác định rõ ràng trước khi những lá bài được tráo.

Cần kết hợp việc đọc lá bài và các tham khảo từ yêu cầu người hỏi, cần nhớ rằng các lá bài phải được giải thích tương đối liên quan đến chủ đề, có nghĩa là tất cả ý nghĩa chính thức và thông dụng của các lá bài nên được điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể trong câu hỏi - vị trí, thời gian của cuộc sống và giới tính của người hỏi.

Ví dụ, lá Fool có thể cho thấy toàn bộ mức độ hưng phấn hay điên rồ của tâm trí, nhưng mỗi giai đoạn cụ thể của bói toán cần phải được đánh giá bằng cách xem xét các xu hướng chung của các loại lá bài, và trong tự nhiên, trực giác đóng một vai trò quan trọng trong trải bài này.

Như vậy, ngay từ khi bắt đầu đọc các lá bài, để có thể thấu suốt câu trả lời một cách nhanh chóng, trí óc nên ghi nhận những ấn tượng chung của chủ đề - xu hướng của số phận – và sau khi bắt đầu lại – đọc từng lá một và giải thích chi tiết các ấn tượng đó.

Nên nhớ rằng lá Trumps được đại diện cho những lực lượng mạnh mẽ và quyền năng hơn là những lá bài nhỏ.

Giá trị của các trực giácsự sáng suốt của được giả định là tất nhiên trong bói toán. Khả năng này là năng lực tự nhiên hoặc đã được phát triển bởi kinh nghiệm của người bói, sự sắp xếp ngẫu nhiên của các lá bài tạo thành một liên kết giữa tâm trí của mình và bầu không khí của đối tượng bói toán, và phần còn lại sau đó tức là việc đọc bài thì hết sức đơn giản. Trong trường hợp trực giác thất bại, hoặc không có, trí tuệ, sự tập trung quan sát và sự suy diễn phải được sử dụng đến mức tối đa để có được một kết quả thỏa đáng. Nhưng trực giác, ngay cả khi dường như không hoạt động, có thể được tạo ra bằng cách luyện tập trong các quá trình bói toán. Nếu nghi ngờ ý nghĩa chính xác của một lá bài trong một mối quan hệ cụ thể, người bói được gợi ý bởi những người thông thạo trong vấn đề này, để đặt bàn tay của mình vào nó, cố gắng không nghĩ đến  nó phải là cái gì, và lưu ý những ấn tượng phát sinh trong tâm trí của mình. Lúc đầu, điều này có lẽ sẽ chỉ dùng việc đoán để giải quyết  và có thể chứng minh là không chính xác, nhưng nó sẽ có thể trở thành hiện thực với việc luyện tập hằng ngày để phân biệt giữa một phỏng đoán của tâm ý thức và một ấn tượng phát sinh từ tâm thức đó  gọi là phụ ý thức.

Đây không nằm trong lĩnh vực của tôi [lĩnh vực bói bài] để đưa ra những gợi ý hoặc lý thuyết hoặc bài tập trong chủ đề này [chủ đề phát triển tâm linh], tôi không có nhiệm vụ ở đó, nhưng theo một khẳng định của một người có tư cách hơn tất cả những thầy bói bài ở Châu Âu, họ có thể phát triển tâm thức nếu họ có thể tiên đoán được chỉ với một cái bắt tay.


Chú ý khi hành nghề bói toán

1. Trước khi bắt đầu thực hiện, xác định câu hỏi của bạn một cách chắc chắn, và nói to lặp lại điều đó

2. Làm cho tâm trí bạn càng thoải mái càng tốt trong khi tráo bài.

3.Giữ cho tâm trí tránh khỏi sự thiên vị và những định kiến càng xa càng tốt, nếu không sự phán xét của bạn sẽ bị nhuốm màu theo những điều đó.

4. Trong sự tính toán này, việc toán đoán dễ chính xác khi thực hiện cho một người lạ hơn là cho bản thân hoặc bạn bè.

2. Bình Luận

Bài hướng dẫn này của Waite có hai điểm chú ý : một là, ông hướng dẫn cách tráo bài để tạo lá ngược; hai là, ông yêu cầu người hỏi cắt bài bằng tay trái. Hai chủ đề này ta sẽ bàn ở phần sau. Trước hết giải thích chung về cấu trúc của trải bài này. Trải bài được chỉ định dành cho câu hỏi chung chung về định mệnh hoặc những câu hỏi có định thời gian cụ thể (khác với trải bài Celtic chỉ sử dụng khi câu hỏi cụ thể rõ ràng). Đây là trải bài khó vì dùng đến  42 lá bài, và không có câu hỏi chung cho từng lá mà là cảm nhận chung cho cả thứ tự của 42 lá này. Dường như Waite đánh giá cao sự liên tưởng và trực giác của người bói hơn khả năng lý luận dựa vào các từ khóa; trích "Giá trị của các trực giác và sự sáng suốt của được giả định là tất nhiên trong bói toán.". Xong, ta vào hai chủ đề chính của trải bài này.

Thứ nhất, vấn đề tráo bài để tạo lá ngược. Rõ ràng, trong cách thông thường hiện nay, việc tạo lá ngược được tạo bằng việc cắt bài làm 2 xấp và đảo chiều một xấp (thông thường là xấp phía trên hoặc xấp thứ hai). Còn trong hướng dẫn , dường như ông chỉ cho phép đảo chiều một số lượng lá ít hơn nửa bộ bài, như ông nói "some of the cards". Trong cách hiểu của tôi, việc này nhằm đảm bảo số lượng lá ngược hay nghĩa ngược (tiêu cực nói chung) không vượt quá một giới hạn nghĩa chính, tức là như tôi hiểu, nghĩa ngược chỉ là một phần phụ của lá bài, và nghĩa thuận là nghĩa chính thức của lá bài. Điều này có vẻ đơn giản nhưng có một số thay đổi quang trọng. Nếu nghĩa ngược chỉ là phần phụ, đồng nghĩa với việc khi rút được lá ngược, ta phải diễn dịch nghĩa thuận (đồng thời là nghĩa chính thức của lá bài) trước, rồi mới diễn dịch nghĩa ngược từ nghĩa thuận đó. Nói cách khác, bối cảnh của nghĩa ngược phụ thuộc hoàn toàn vào bối cảnh của nghĩa thuận và không có chiều ngược lại. 

Thứ hai, vấn đề tay trái. Dường như không có trải bài nào khác chỉ rõ điều này, hoặc giả là người ta cho phép tự do hơn. Tôi đã duyệt qua hầu hết các trải bài ở cùng thời với ông, hầu hết chúng đều không nhắc gì đến tay trái hay phải. Tuy nhiên, vẫn cần nhận định là trong khá nhiều trường hợp sách huyền học lúc bấy giờ đều được viết với một chỉ dẫn hời hợt hoặc thần bí, mà trong đó mọi nghi thức và kiến thức quang trọng bị ẩn dấu một cách có hệ thống. Vì vậy, không có lý do gì để tin rằng, việc sử dụng tay trái không phải là một nghi thức có tính bắt buộc, và sau đây tôi sẽ lướt qua một số liên hệ về vấn đề này.

Trước hết hãy bắt đầu phân tích từ nghi lễ "Neophyte Ritual" đành cho Grade 0=0 (xem thêm video ở bên dưới ở phút 4:48). Đáng chú ý là phần nghi lễ sau: "Hiero: Thou wilt kneel on both knees, give me your right hand, which I place on this sacred and sublime symbol (Places Candidate's right hand on the center of the triangle.) Place your left hand in mine, bow your head, repeat your full name at length and say after me (All rise)" và "As they pass the Hierophant, who is standing and holding the Banner of the East in his left hand, the Scepter in his right, they make the Neophyte Signs". Trong quan niệm Golden Dawn, tay phải mang tính lý trí (thuộc tính nam, tính mạnh, tính thần thánh), còn tay trái mang tính tình cảm (thuộc tính nữ, tính yếu, tính trần tục). Việc người hỏi được cắt và chạm đến bộ bài có lẽ nhằm đưa năng lượng và yêu cầu của người hỏi vào bộ bài. Việc dùng tay trái có thể giải thích rằng người hỏi tác động yếu vào bộ bài, chỉ mang tính cá nhân, trần tục như việc truyền cảm nhận vào bộ bài, nhưng không chế áp bộ bài để ra quyết định. Còn người bói, vốn là chủ thể của bộ bài, thì mới được dùng tay phải để sử dụng, vì đó là năng lực và quyền hạn của người được tin cậy, phải đưa ra lời khuyên một cách lý trí và quyết đoán.

Trong cuốn The Magical Tarot of the Golden Dawn của Chris và Pat Zalewski, tác giả dẫn ra bản viết tay của Mathers vào năm 1900 về "Seven branched candlestick" trong đó hướng dẫn một số nghi lễ dành cho trình độ Theoricus Adeptus Minor của hội Golden Dawn như sau "Nun: Arms bare and strong: on Right, a shield, Golden, and charge with a dove (the eagle on the card in the ordinary pack is a corruption): in the left hand, Three lillies, held like a scepter, and the Crux Ansata or Nile Key; hanging form the left wrist;the coloring bluish green.". Một cuốn thứ hai mà tôi tìm được đó là bản thảo Flying Roll của tiến sĩ W.W. Westcott (thầy của Mathers, sáng lập viên của Golden Dawn) viết vào cuối thế kỷ 19 (trong khoảng 1880 đến 1900). Trong bản thảo này, người ta thấy một hướng dẫn nghi lễ ở chương 12 - Telesmatic Images & Adonai như sau "NUN. Arms bare, strong, extended as a cross. In the right hand are ears of corn, and in the left a golden Cup. Large dark spreading Wings.". Cả hai cuốn này cho thấy phân tích bên trên của tôi là hoàn toàn đúng đắn. Rõ ràng trong Golden Dawn, vị trí và ảnh hưởng của 2 tay hoàn toàn khác nhau. Ở tay phải là những hình thức của cái mạnh, đại diện cho lý trí, quyền lực, sự quyết đoán, tính nam (Khiên Vàng, Hạt Bắp *). Còn ở tay trái là những hình thức của cái yếu, đại diện cho tình cảm, sự tôn sùng, sự tuân theo, tính nữ (Biểu tượng nữ thần sông Nile, Cành Hoa Lyly, Cúp Vàng*). 

* Khiên là vật dụng chiến đấu của người nam, cành hoa lyly là đại diện cho sự trồng trọt của tính nữ. Hạt bắp một măt đại diện cho sự sinh trưởng nhưng đồng thời đại diện cho người phối giống (như dương vật nói chung), còn cái Ly đại diện cho vật thụ hưởng (ly đựng nước hoặc hạt ngũ cốc) và dạng lõm của cái ly được xem như dạng của âm đạo phụ nữ, vì vậy đại diện cho tính nữ. [Nếu có xem Davinci Code thì chắc biết rồi]. Biểu tượng nữ thần vừa là sự sùng kính tuyệt đối (thuộc tính nữ), vừa đại diện cho tính nữ của nữ thần.

Một phần khác của bản thảo Flying Roll mà tôi chú ý là ở chương 9 - Right & Left viết năm 1893. Phần này nói về cột Jachin&Boaz của đền thờ Solomon. Trích Kinh Thánh Chronicles II; 3-17: "And call the Name on the right hand (of him who enters) Jachin, and the Name of that on the left, Boaz."; dịch "Và gọi bên phải là Jachin và bên trái là Boaz". Tôi đã có dịp trình bày cặn kẽ về cột Jachin&Boaz ở bài  Học Biểu Tượng trong Bộ Waite Tarot - Phần 03: THE HIGH PRIESTESS tại đây. Vì vậy tôi chỉ nhắc lại ý chính: Jachin là cột trắng đại diện cho tính nam, Boaz là cột  đại diện cho tính nữ. Và như tôi đã nói đến trong kinh thánh Chronicles II, Westcott đã đưa ra quy tắc được áp dụng cho Golden Dawn như sau "Black Pillar = Severity = Left = North ; White Pillar = Mercy = Right = South". Vì vậy, từ tài liệu của Westcott càng chứng minh được Golden Dawn ngay từ ban đầu đã xác định tay trái dành cho tính nữ (tính yếu, tính tình cảm) và tay phải dành cho tính nam (tính mạnh, tính lý trí) chứ không phải chỉ xuất hiện từ thời kỳ Mathers trở đi.

Một số ý nghĩa khác cũng cần được nói đến. Theo truyền thống ma thuật, người thuộc White Magic-Ma Thuật Trắng* dùng tay phải cho nghi lễ chính và tay trái cho nghi lễ phụ (điển hình như những hội thuộc black magic như Ceremonial Magick, Qabalah, The Golden Dawn, Rosicrucian, các hội thuộc angelic magic...). Những hội này coi bản thân như sự mặc khải của thiên chúa xuống trần gian và thực hiện theo phán truyền của thiên chúa (dù không hoàn toàn như Rosicrucian vẫn thờ Bathomet, Golden Dawn có nhiều nghi lễ thuộc ngoại giáo Talisman). Còn người thuộc Black Magic-Ma Thuật Đen* thì ngược lại, dùng tay trái cho nghi lễ chính, và tay phải cho nghi lễ phụ (điển hình như các hội Satanism, Setian, Qliphothic, Paganism, cái này thì rõ rồi hen. Ở Việt Nam, chỉ đếm số người tôi biết, thì cũng đã đến hơn 10 người chuyên nghiên cứu về ma thuật đen, một con số không phải không ấn tượng với một xứ mà có lẽ đến 95% dân số không biết rằng Abracadabra là một câu bùa chứ không phải chỉ là tên bài hát của nhóm Brown Eyed Girls). Dựa vào quy tắc đặt tay và cử chỉ, hoàn toàn có thể đoán được nghi lễ đó thuộc ma thuật trắng hay đen.

* Ma Thuật Trắng là thuật ngữ ám chỉ các nghi lễ của các phù thủy sử dụng ma thuật cho mục đích cao cả theo mặc khải của đấng tối cao (phải nói rõ là đó có thể không phải là thiên chúa của Thiên Chúa Giáo). Ma Thuật Đen là thuật ngữ ám chỉ các nghi lễ của các phù thủy sử dụng ma thuật cho mục đích đen tối nói chung, thường là phục vụ theo các giao dịch tiền bạc hoặc quyền lực mà không cần sự mặc khải của đấng tối cao.

Tay trái gắng liền với cái yếu và cái phụ ngay từ đầu thời kỳ trung cổ. Từ "left"- bên trái có gốc anglo-saxon từ "lyfy" trong cổ ngữ và có nghĩa là nhẹ. Trích từ The Free Dictionairy của từ "lyfy" như sau "Middle English, from Old English lyft-, weak, useless (in lyftdl, paralysis).". Một dẫn chứng khác là từ Sinister, có gốc từ tiếng Latin có nghĩa là dùng tay trái hay thuận tay trái, vốn là bàn tay của ma quỷ và các thế lực siêu nhiên, vẫn còn được dùng ngày nay với ý nghĩa là ma quái, điềm xấu, kém may mắn ... Trích từ The Free Dictionnairy của từ "sinister" như sau "Middle English sinistre, unfavorable, from Old French, from Latin sinister, on the left, unlucky, from Old English lyft-, weak, useless (in 'lyftdl', paralysis)." .

Chúng ta còn có thể bắt gặp điều này ở trường ca Homer Odyssey, khi mà dấu hiệu một con chim ưng bay về phía tay phải thì nó mang tin tốt lành, còn nếu bay về tay trái thì nó mang tin dữ. Ngoài ra ý tưởng của nó còn có trong tiếng pháp khi mà từ "droit"-tay phải tương đương với nghĩa quyền lực (avoir la droit = có quyền làm) hoặc đúng đắn. Còn bên trái tương đương với từ maladroit (biến âm từ mal-à-droit = không phải bên phải) có nghĩa là xấu xa, sai lầm. Hầu hết các ngôn ngữ châu Âu đều có chung khái niệm này, khác với châu Á khi mà bên trái được coi trọng hơn bên phải và được gán cho tính nam. Xem thêm Wiki về vấn đề tay trái tại đây.

Ngoài ra, còn khái niệm cổ về năng lượng và ma thuật cho rằng, tay phải được coi là nơi thu năng lượng, còn tay trái được coi là nơi tống năng lượng; hay một cách diễn đạt khác: tay phải là xây dựng, tay trái là phá hủy. Một dẫn chứng từ sách The Witches Bible (Kinh Thánh Ma Thuật) do Jan và Stewart Fararr xuất bản năm 2002 có mô tả về một nghi lễ của Gardenarian Wicca trong đó người phù thủy mở và đóng cánh cửa năng lượng từ tay phải và trái của mình. Tôi đang coi lại Bible Gardenarian để kiểm tra hình thức nghi lễ này. Trước khi xác minh, tạm biết như vậy đã. 

{ps: cuốn sách toàn ảnh chụp lại bản viết tay của Garden, chữ xấu mà còn khó đọc nữa. Bản chuyển ngữ tiếng Anh thì sai bét nhè. Đọc sách cổ thiệt là nãn lòng... Tham lam down về 1 đống trong ổ cứng rồi đau lòng nhận ra toàn là tiếng đức hay ý hay hi lạp không ah =,= }



Video trên đây được hội Golden Dawn Châu Âu thực hiện. Người phát biểu cuối video là tổng chủ tịch Golden Dawn hiện tại. Tuy nhiên, cần nhắc rằng hội Golden Dawn từ lâu đã giải thể sau thế chiến, và các hội này đều là tự xưng theo truyền thống của Golden Dawn (hiện có khoảng hơn 200 hội tự xưng tuân thủ truyền thống của Golden Dawn và cạnh tranh lẫn nhau).

3. Kết Luận

Bài này có 2 mục đích: một là hiệu đính lại một phương pháp ít sử dụng của Waite dành cho các câu hỏi chung và các câu hỏi về số phận; thứ hai là bàn sâu về việc cắt bài tạo lá ngược và vấn đề tay trái trong các nghi lễ bói toán nói chung. Việc áp dụng các nghi thức này, trong các học giả tên tuổi nên được tuân theo mà không nên bỏ qua. Greer và Eden cũng như các trường phái sau này, hay có xu hướng đơn giản hóa các quy tắc này; và điều này theo tôi là không nên. 


Đọc tiếp »
Trang chủ