Tarot Huyền Bí Blog thủ thuật
10/10 1500 bình chọn

Tổng Hợp Biểu Tượng Trong The Lovers của Dreaming Way Tarot

item-thumbnail
Lá bài này mô tả thứ tình yêu chân chính không sở hữu hay kiểm soát đối phương. Đó có thể là tình cảm lãng mạn, cũng có thể là lực hấp dẫn mang những người suy nghĩ giống nhau lại gần nhau. Thiên thần ở giữa ban phước lành cho cặp đôi và làm bền chặt thêm mối dây gắn kết giữa hai người.

Lovers trong Dreaming Way Tarot. Ảnh: Internet


Hình ảnh hai người nắm lấy tay của vị chủ hôn là một hình ảnh cổ điển trong bí tích hôn phối. Trong Công giáo Rôma, hôn nhân được gọi là Bí tích Hôn phối, đây là sự tác hợp vợ chồng giữa một người nam và một người nữ thông qua giáo quyền. Về bản chất, sự tác hợp này là duy nhất và vĩnh viễn trong suốt cuộc đời người nam và người nữ. Giáo hội Công giáo xác định hôn nhân là một "bí tích" và vì vậy nó có tính chất thánh thiêng, việc cử hành "bí tích hôn nhân" một cách chính thức trước mặt cộng đoàn giáo dân do một linh mục cử hành khiến nó trở nên một giao ước vĩnh cửu giữa người nam và người nữ. Người Công giáo tin rằng khi được lãnh nhận bí tích hôn nhân cách chính thức, đôi nam nữ sẽ được chúc phúc yêu thương, chung thủy với nhau suốt cả cuộc đời, trong một giao ước do chính Chúa Giêsu đã lập. 


Có thể nói, hai đặc tính cơ bản nhất của một cuộc hôn nhân Công giáo là đơn hôn (một vợ một chồng), vĩnh hôn (vĩnh viễn), thể hiện qua câu Kinh Thánh thường dùng: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”. Do có đặc tính như vậy nên người Công giáo tin rằng đôi nam nữ lãnh nhận bí tích hôn nhân sẽ phải yêu thương nhau mãi mãi. 

Giáo hội Công giáo quan niệm rằng: con người được sinh ra là do Thiên Chúa, vì thế, hôn nhân cũng là sự cộng tác vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa qua việc sinh sản. Tuy nhiên cho rằng việc sinh sản là tham gia vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa là chưa đúng và chủ quan, phiến diện; bởi vì công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa còn là sự duy trì nhân sinh như: chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội, giúp đỡ nhân loại, tạo điều kiện phát triển kinh tế, phát triển khoa học kĩ thuật cải thiện đời sống con người...v...v... Do đó sinh sản không phải là điều chính yếu nếu không muốn nói đó sẽ là tội lỗi nếu sinh sản vô trách nhiệm, không đảm bảo được tương lai con trẻ. Nghi thức hôn phối Công giáo được cử hành trong một thánh lễ có giáo dân tham dự, linh mục hoặc phó tế làm người chứng hôn, cần thiết có thêm hai người làm chứng "không bị ngăn trở" cho đôi hôn phối.

Thay cho hình ảnh vị thần cổ điển, lá bài sử dụng hình ảnh tiên nữ. Theo wikipedia, tiên Nữ còn được gọi là nàng tiên là loài vật trong thần thoại hoặc trong truyền thuyết thường là con gái, được hình thành từ linh hồn, thường được miêu tả như siêu hình, siêu tự nhiên hoặc siêu nhân. Tiên nữ nói chúng diễn tả về loài người với sức mạnh phi thương như phép thuật. Trong nền văn hóa hiện đại chân dung của tiên nữ thường được miêu tả với tuổi trẻ, đôi khi có cánh, có đặc tính và vóc dáng của loài người, nếu so sánh nguồn gốc hình dáng của họ rất khác: cao,sáng chói,giống thiên thần (tốt bụng) hoặc lùn, hay giống troll đó là những hình ảnh thường được nhắc tới. Vóc dáng bé nhỏ của tiên nữ đã được nhắc tới nhiều thế kỷ, nhưng tiên nữ xuất hiện trong các tác phẩm giống với vóc dáng loài người; nói chung vóc dáng của tiên nữ có thể từ bé cho tới kích cỡ của người. Dù với những tiên nữ nhỏ, kích cỡ của họ không ảnh hưởng tới khả năng sử dụng phép thuật.

Cánh là bộ phận của tiên nữ được miêu tả đến rất thông thường trong Victorian và về cả những tác phẩm nghệ thuật của tiên nữ, nhưng cánh lại rất hiếm xuất hiện trong văn học dân gian; Đôi khi, trên những cành cúc dại hay theo sau những cánh chim, nàng tiên nhỏ còn biết bay rất điệu nghệ. Tiên nữ thường thường miêu tả với như những Côn trùng có cánh hoặc Bươm bướm.

Ở Trung Quốc, bươm bướm là biểu tượng trường thọ, mùa thu (gắn với hình ảnh hoa cúc) và hạnh phúc lứa đôi. Với người Trung Quốc và một số nước Châu Á, hình ảnh một đôi bướm (cũng giống như đôi uyên ương) là biểu tượng của cặp vợ chồng hạnh phúc. Tại Nhật Bản, bươm bướm tượng trưng cho người phụ nữ duyên dáng nhẹ nhàng. Cũng tại đất nước này, bướm là biểu tượng của những vong linh phiêu lãng, con vật tiên báo có khách tới thăn hoặc người thân thích vừa mới qua đời. 

Với người Aztec, con bướm với đôi cánh vẫy vũng cuống quýt là tượng trưng của linh hồn hoặc hơi thở hắt ra của người hấp hối. Một con bướm đang bay lượn giữa những bông hoa biểu trưng cho linh hồn của một chiến binh ngã xuống nơi chiến trường. Với họ, bướm cũng là biểu tượng của thần lửa (do màu sắc rực rỡ và cách đập cánh bướm gợi liên tưởng đến lửa chập chờn). 

Với người Việt Nam xưa và một số dân tộc khác, bướm là hình ảnh tượng trưng cho sự nhẹ dạ, những người không chung thủy (vì nó chỉ đùa giỡn bên hoa một lát rồi bay đi mất) hoặc là hiện thân của những linh hồn cõi âm trên dương gian. Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài là truyền thuyết về một chuyện tình được coi như “Romeo và Juliet” của Trung Quốc. Mặc dù tình yêu của Lương – Chúc kết cục bi thảm nhưng hình ảnh cuối cùng là một đôi bướm quấn quýt bên nhau bay lên từ nấm mồ của đôi nam nữ này đã khiến chúng trở thành biểu tượng của tình yêu chung thủy son sắt. Truyền thuyết Lương – Chúc còn được truyền tụng trong cộng đồng văn hóa vùng Đông Á với tên gọi khác là “Chuyện tình hồ điệp” – tức là “Chuyện tình bươm bướm”.

Hình ảnh tiên nữ với cánh bướm cho thấy thẩm quyền kết hợp của sức mạnh siêu linh trong hôn nhân đối với cuộc đời và sự lựa chọn bạn đời của con người. Đó là lý do lá này mang hàm nghĩa: "rơi vào lưới tình, tìm thấy điểm chung, gặp được cơ hội tốt về tình yêu, hình thành liên kết giữa hai cá nhân...".

Nhiều văn học dân gian nói sự đáng sợ của tiên nữ. Chẳng hạn Briggs trong The Fairies in English Tradition and Literature có dẫn nhiều ví dụ về tiên nữ trong văn hoá Anh Quốc. Người ta tin rằng có nhiều cách phòng vệ khỏi những điều ác của tiên nữ: sắt và thép lạnh (giống như là thuốc độc để chống tiên nữ, và họ sẽ không dám lại gần) hoặc dùng bùa làm từ thanh lương trà và rau thơm, tiên nữ phải tránh tổn hại bằng cách chạy trốn đến chỗ họ biết là sẽ an toàn.Đặc biệt, văn học dân gian miêu tả về những tiên nữ bắt cóc em bé và đánh tráo tình nhân để thay thế, và bắt cóc luôn cả người già. Nhiều chuyện dân gian nói về tiên nữ, ám ảnh các hiệp sĩ hay nhà vua, nhất là truyện thần tiên của văn học Victorian. Điều đó giải thích cho những hàm nghĩa xấu xa của lá bài: "hiểu lầm sự cuốn hút thành tình yêu, ám ảnh, điều khiển, dối trá hoặc ảo tưởng".

Xuôi: rơi vào lưới tình, tìm thấy điểm chung, gặp được cơ hội tốt, hình thành liên kết. 

Ngược: hiểu lầm sự cuốn hút thành tình yêu, ám ảnh, điều khiển, dối trá hoặc ảo tưởng.

Xem tất cả bài viết trong cuốn Dreaming Way Tarot: Con Đường Mơ Mộng của Hằng Phí.
Hằng Phí, thành viên Tarot Huyền Bí, quản trị viên của Dreaming Way Tarot Việt Nam và trang Dreaming Way Tarot. Bài viết tổng hợp từ nhiều nguồn và mang quan điểm của tác giả.
Đọc tiếp »

Tổng Hợp Biểu Tượng Trong The Hierophant của Dreaming Way Tarot

item-thumbnail
Lá The Hierophant chỉ tất cả những người lãnh đạo tôn giáo, không chỉ Giáo hoàng và mục sư Công giáo, mà còn bao gồm cả shaman nữa. Trên thực tế, nó chỉ tất cả những cá nhân lớn tuổi có sự thông tuệ để chia sẻ cho những người trẻ hơn. The Hierophant dẫn dắt những người mới bắt đầu tạo thành nhóm, tổ chức, định chế và cấu trúc nên hệ thống đức tin.

Hierophant trong Dreaming Way Tarot. Ảnh: Internet


Theo Biểu Tượng của Tử Đinh Hương “Chiếc chìa khóa – hình ảnh tượng trưng cho người lãnh đạo, nguwoif làm chủ, người đề xướng – tất cả những ai nắm quyền quyết định và trách nhiệm, chiếc chìa khóa là biểu tượng của quyền lực và sự chỉ huy tối cao. Tại Nhật Bản, chiếc chìa khóa là biểu tượng của sự phồn thịnh bởi thời xa xưa nó thường được dùng để mở kho thóc, kho gạo. Người ta cũng cho rằng vị Thủ lĩnh, Mặt trời, Thượng đế là ba chìa khóa vĩ đại. Thượng đế là chìa khóa của sự sáng chế và của thế giới. Mặt trời là chìa khóa của ngày và nó mở ra khi mọc lên và đóng lại khi lặn xuống. Còn Thủ lĩnh là “chìa khóa” của bộ tộc bởi chỉ có ông ta mới có quyền quyết định thực hiện hoặc hủy bỏ công việc. Trong các truyện cổ và truyền thuyết, người ta rất hay nhắc đến ba chiếc chìa khóa. Chúng lần lượt dẫn vào bên trong ba hàng rào hoặc ba phòng bí mật. Đó là ba bước đến gần cái bí ẩn. Những chìa khóa bằng bạc, bang vàng hoặc kim cương ấy đánh dấu những giai đoạn thanh tẩy và khai tâm. Chìa khóa ở đây là biểu tượng của cái bí ẩn phải khám phá, của câu đố phải giải, của hành động khó khăn phải thực hiện, tóm lại là những bước đường dẫn tới sự giác ngộ và phát minh. 



Hình ảnh chòm chìa khoá trong lá bài này tham chiếu đến huyền tích về thánh Phê rô. Xin trích dẫn từ wikipedia những chi tiết về cuộc đời của thánh. 

Thánh Phêrô (Tiếng Hy Lạp: Πέτρος, Pétros "Đá", Kephas hoặc thỉnh thoảng là Cephas) là tông đồ trưởng trong số mười hai Tông đồ của Chúa Giêsu. Thánh Phêrô được Chúa trao cho quyền cai quản Hội Thánh. Ông là con trai của Gio-na và là anh em ruột của Anrê, một vị Thánh khác trong 12 Tông đồ của Chúa Giêsu. Nguồn sử liệu chính giúp chúng ta tìm hiểu về cuộc đời của ông là sách Tân ước mà chủ yếu là bốn sách Phúc Âm và sách Tông đồ Công vụ. Tân ước nhắc đến Phêrô khoảng 154 lần, dưới danh xưng Hy Lạp Petros, thường gắn liền với tên Do Thái Simêon (đọc theo kiểu Hy Lạp là "Simon"). Tên khai sinh của ông là Simon, và tên của cha là Gioan. Danh xưng tiếng Hy lạp "Petros" gốc từ "petra" có nghĩa là "đá", do Chúa Giêsu đặt cho ông; trong tiếng Aram là Kêpha (xuất hiện trong các thư của Thánh Phaolô). 

Truyền thống công giáo cho rằng, ông là Giám mục của Rôma và là vị giáo hoàng đầu tiên của Giáo hội Công giáo. Đối với cộng đồng tín hữu Công giáo, bằng chứng quan trọng cho thấy Thánh Phêrô là lãnh đạo của Giáo hội do chúa Giêsu thiết lập được tìm thấy trong Kinh Thánh, chương Mátthêu 16:17-39 và Gioan 21: 15-17.Cụ thể, khi đến vùng kế cận thành Caesarea Philippi (Xê-da-rê Phi-líp-phê) ông là người đã tuyên xưng Giê-su là Con Thiên chúa. Và cũng chính tại đây, ông đã được Chúa Giê-su đặt là người đứng đầu tuyên bố tính thiên sai của Chúa Kitô và làm nền móng cho Giáo hội: “ Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy ” —Tin mừng Mát thêu, 16,18-19. Đó là lý do lá bài mang những ngữ nghĩa: bài học, nghi thức, chỉ dạy, quan hệ truyền thống...

Do đó, sử dụng hình ảnh thánh Phêrô, lá bài muốn nhắc đến vai trò dẫn dắt tâm linh của nhân vật. Ngoài hình ảnh chìa khoá nước trời, còn có hình ảnh mũ Zucchetto cũng có cùng ý nghĩa.

Mũ Zucchetto (đôi khi còn gọi là Mũ Sọ) là loại mũ đội đầu nhỏ hình bán cầu, dành cho các giáo sĩ trong Giáo hội Công giáo Rôma, Anh giáo cũng như vài giáo hội Chính Thống giáo Đông phương. Trong truyền thống Công giáo, mũ zucchetto thường được làm bằng lụa tơ tằm hoặc vải polyester, từ tám mảnh hình tam giác ghép lại tạo thành hình bán cầu. Trên đỉnh mũ có một núm nhỏ để tạo sự thuận tiện khi sử dụng. Về nguyên tắc, tất cả những ai có chức thánh trong Giáo hội Công giáo Rôma đều có đặc quyền đội mũ zucchetto màu đen (nếu họ được thăng chức cao hơn sẽ mang mũ màu khác) và chỉ được đội mũ zucchetto khi có mặc áo Cassock hoặc áo lễ (dù rằng rất hiếm khi giáo sĩ đội mũ zucchetto màu đen). Giám mục có thể đội mũ zucchetto màu tím, hồng y đội màu đỏ, và màu trắng chỉ dành riêng cho giáo hoàng. Mũ Zucchetto luôn là mũ đội trong cùng nếu đội kèm các loại mũ khác như mũ Mitre, mũ Biretta. Một giáo sĩ đang đội mũ zucchetto sẽ phải cởi mũ này ra khi gặp một giáo sĩ ở chức cao hơn. Tất cả các giáo sĩ phải cởi mũ zucchetti của mình ra khi gặp giáo hoàng, trừ khi ông cho phép họ tiếp tục đội. Mũ Zuccetto chính là biểu hiện của người lãnh đạo giáo đoàn và tâm linh. Hình ảnh nguười tu sĩ bất lực nhìn cuộc sống thể hiện ý nghĩa khác của lá bài này: hy sinh quá nhiều để đi theo truyền thống, những nghi lễ vô nghĩa, bất lực trong tâm linh ...

Hình ảnh cây sồi hay rừng sồi mang ý nghĩa khác. Theo Biểu Tượng của Tử Đinh Hương “Thân hình cao lớn và vạm vỡ, tán cành trải rộng sum sê và có thể sống hàng trăm năm tuổi, cây sồi (tên gọi chung một số cây to cùng họ với dẻ, cành non có long, lá hình trái xoan dài nhọn đầu, gỗ dùng trong xây dựng, có nhiều ở phương Tây) trong nhiều nền văn hóa, đặc biệt văn hóa phương Tây, là một loài cây linh thiêng, biểu tượng của sự uy nghi, sức mạnh, trí tuệ hiền minh và quyền lực. Với người Châu Âu, cây sồi còn là biểu tượng của hạnh phúc, sức khỏe và sức sống dẻo dai. Không những thế, người ta còn tin rằng cây sồi linh thiêng sẽ ban tặng cho con người sức mạnh vĩ đại cùng những ước mơ phóng khoáng. Huyền thoại cổ xưa của nhiều nước Châu Âu cho rằng, thân hình vạm vỡ của những cây sồi chính là những cánh cửa ngăn cách thế giới con người với những thế giới thần linh khác. Cánh cửa – thân sồi sừng sững ấy sẽ thôi đóng im ỉm nếu như có một ai đó mở được nó ra và người đó sẽ tìm thấy đường đến với những thế giới kì diệu chưa từng biết đến. Đối với nhiều bộ lạc cổ xưa ở nước Đức, cây sồi còn có khả năng tiêu trừ sự ngu dốt và tăm tối. Truyền thuyết của người Hy Lạp cũng kể rằng, cây sồi là hiện thân của thần Zeus, vị thần đứng đầu trên đỉnh Olympus. Trong tâm thức của người Châu Âu từ xưa đến nay, cây sồi luôn là một loài cây thần thánh. Họ tin rằng nếu mang một hình ảnh cây sồi(hoặc lá, quả sồi) như một thứ bùa bên mình thì sẽ luôn gặp may mắn, tự tin, lạc quan yêu đời và có đủ nghị lực để đương đầu với nguy hiểm khó khăn. Và đó cũng là lí do vì sao trên các đồ thêu, thảm len, gốm sứ, trang sức, lưu niệm….của người phương Tây thường có họa tiết cây sồi, lá sồi hoặc quả sồi. Không ít quốc gia trên thế giới chọn cây sồi là biểu tượng của dân tộc mình như : Cộng hòa Síp, Anh, Estonia, Đức, Ireland, Italy, Moldova, Serbia, Mĩ, Xứ Wales…”Cây là một đại diện của cuộc sống. 

Đây là dây liên kết giữa trời và đất , là sổ đăng ký của con người và miền đất của Thiên Chúa. Với chuyển đổi hình ảnh cái cây liên quan đến các mùa, cây gợi lên cuộc sống với sự ra đời , trưởng thành và cái chết. Nó ám chỉ sự tuần hoàn của vũ trụ và sự bất tử. Là đại diện cho cái cây trong mùa xuân, là sự phục sinh sau chết chóc. Nó là niềm an ủi người sống về sự ra đi yên bình của người chết sẽ được phục sinh ở thế giới bên kia. Nó ám chỉ sự hồi sinh.Cũng như vậy cây sồi nếu ngọn cây bị cắt, nó có ý nghĩa giống với hình ảnh cây bị cắt ngon. Tuy nhiên, cây sồi với sự rắn rỏi của nó ám chỉ vị trí lãnh đạo của người dưới mộ. Nếu được mô tả ở phần chéo của cây (chạc cây) nó biểu hiện tinh hoa và sức mạnh của người đã mất với thế giới.Dưới chân thập giá, cây sồi ám chỉ một sự từ chối phát triển. Nếu được mô tả với các chồi mới nhú, nó hứa hẹn mùa xuân tương lai. Một là nó ám chỉ sự vĩnh cữu của thời gian, hai là nó ám chỉ người dưới mộ chết vào mùa xuân. – Theo bài viết Cái Chết, Sự Bất Tử và Sự Hồi Sinh (Phục Sinh) của tác giả Philippe Ngo

Xuôi: bài học, nghi thức, chỉ dạy, hôn nhân, quan hệ truyền thống, phong tục, tạo ra sự ăn khớp, có trí tuệ nhưng không có quyền lực. 

Ngược: hy sinh quá nhiều để đi theo truyền thống, những nghi lễ vô nghĩa, hối lộ, bại hoại.

Xem tất cả bài viết trong cuốn Dreaming Way Tarot: Con Đường Mơ Mộng của Hằng Phí.
Hằng Phí, thành viên Tarot Huyền Bí, quản trị viên của Dreaming Way Tarot Việt Nam và trang Dreaming Way Tarot. Bài viết tổng hợp từ nhiều nguồn và mang quan điểm của tác giả.
Đọc tiếp »

Tổng Hợp Biểu Tượng Trong Lá The High Priestess Của Dreaming Way Tarot

item-thumbnail
Lá The High Priestess thường ám chỉ một người phụ nữ trẻ tuổi (20-40 tuổi), xinh đẹp, biết chăm sóc bản thân. Bầu không khí đứng đắn và riêng biệt của mình làm nàng có vẻ xa cách và khó tiếp cận, nhưng nàng có một trái tim ấm áp. Khi còn độc thân, nàng rất được nam giới yêu thích nhưng sau khi kết hôn nàng lại trở nên kín đáo và thụ động.


The high priestess trong Dreaming Way Tarot. Ảnh: Internet
Đầu tiên là biểu tượng Măt Trăng. Theo Từ Điển Biểu Tượng của Tử Đinh Hương: Mặt Trăng là vệ tinh tự nhiên duy nhất của Trái Đất, phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời và chiếu sáng Trái Đất về ban đêm; hình dạng quan sát được thay đổi dần từng ngày từ khuyết đến tròn và ngược lại. Hình lưỡi liềm là ký hiệu của Mặt Trăng. Mặt Trăng là biểu tượng của biến đổi, sinh trưởng, tuần hoàn, tính nữ, các nhịp điệu sinh học, mang thuộc tính âm và đối lập với Mặt Trời. Mặt Trăng cũng là biểu tượng của thời gian lưu chuyển, thời gian sống động, cuộc chuyển tiếp từ sự sống sang cái chết và từ cái chết trở lại sự sống. 

Trong văn hóa Châu Á, từ ngàn xưa, người nông dân đã dựa vào chu kì biến đổi của Mặt Trăng mà đặt ra lịch(nông lịch, nguyệt lịch), rồi theo đó, tính toán thời vụ gieo trồng, gặt hái.Với họ, Mặt Trăng là biểu tượng của sự sinh sôi và là nơi trú ngụ của thần tiên. Chẳng hạn với người Trung Hoa, lễ hội Tết Trăng – Rằm Trung Thu hàng năm vẫn gợi nhắc câu chuyện cổ tích Hằng Nga (nữ thần Mặt Trăng) gắn liền với mùa gặt hái. Người Trung Hoa còn cho rằng trên Mặt Trăng có con Ngọc Thố - Thỏ Ngọc dung cối giã thuốc, bào chế ra thuốc trường sinh.

Còn người Việt Nam thì cho rằng trên cung trăng không chỉ có chị Hằng và thỏ ngọc mà còn có thằng bé con hay nói dối tên Cuội. Xưa kia, Cuội ở dưới trần gian nhưng vì quá nghịch ngợm nên cuối cùng đã phải bay lên cung trăng cùng với cây đa. Giờ đây, ở Mặt Trăng ấy, vào những ngày trăng sáng, người trần gian vẫn thấy "thằng cuội ngồi gốc cây đa….". Với nhiều dân tộc như Ấn Độ, Do Thái, A Rập….Mặt Trăng thậm chí còn được coi chính là nơi diễn ra cuộc chuyển tiếp từ sự sống đến cái chết hệt như ở chốn âm ti. Theo một số tín ngưỡng, linh hồn được viễn du lên Mặt Trăng hay được an nghỉ vĩnh viễn trên Mặt Trăng, sau cái chết ở cõi trần là đặc ân chỉ dành riêng cho những nhân vật cao quý như vua chúa, anh hùng….

Trên mảnh trăng lưỡi liềm có người con gái ngồi tĩnh lặng ở đó, cô cứ ngồi yên lặng từ trên cao, khuôn mặt không có biểu cảm nhưng đôi mắt dường như bao quát cả thế gian. Cô tượng trưng cho sự nữ tính, mềm mại pha nét bí ẩn, khó hiểu nhưng trong tay người con gái đó lại cầm cuốn kinh Torah, dường như nắm bắt được tất cả bí mật cả thế giới này. Torah (tiếng Hebrew: תּוֹרָה, "Hướng dẫn", "Dạy dỗ"), hoặc những gì thường được dịch là Ngũ Thư, là khái niệm trung tâm trong truyền thống Do Thái giáo. Năm sách này trình bày về công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, sự hình thành quốc gia Israel, sự kiện cả dân tộc Israel được giải phóng ra khỏi Ai Cập, những luật lệ, những vấn đề lớn có liên quan đến lịch sử Israel...Có rất nhiều ý kiến về sự ra đời của kinh Torah, nhưng được đánh giá cao nhất chính là sự kiện khải hoàn của Mose trên núi Sinai. Dựa trên sự nghi chép lại ngày tháng của các giáo sĩ Do Thái chính thống, xảy ra khoảng vào năm 1312 trước Công Nguyên, cón có số liệu khác cho rằng là vào năm 1280 trước Công Nguyên.

Nó có một loạt các ý nghĩa: nó có thể đề cập tới 5 cuốn sách đầu tiên trong 24 cuốn sách của bộ Tanakh; nó thường bao gồm thêm trong đó các bài chú giải rabbi; từ Torah có nghĩa là hướng dẫn và chỉ ra một cách sống cho những người theo nó; nó có thể mang nghĩa là câu chuyện tiếp tục từ Sáng Thế Ký đến cuối của Tanakh; thậm chí nó có thể có nghĩa là toàn bộ các giáo huấn, văn hóa và tục lệ Do Thái giáo.Nói chung, Torah bao gồm các câu chuyện nền tảng của người Do Thái: lời gọi của Thiên Chúa để hình thành nên dân tộc họ, những thử thách và đau khổ của họ, và giao ước của họ với Thiên Chúa, trong đó bao gồm việc tuân giữ cách sống được hiện thực hóa trong một tập hợp các nghĩa vụ tôn giáo và luân lý cũng như các luật pháp dân sự (halakha). Ngũ Thư là năm quyển sách đầu tiên trong Kinh thánh Hebrew, bao gồm: Sách Sáng thế, Sách Xuất hành, Sách Lêvi, Sách Dân số và Sách Đệ nhị luật. Trong Do thái giáo, Ngũ Thư được gọi là Torah, và là phần đầu của Tanakh; trong khi đó với Kitô giáo, đây là phần đầu của Cựu Ước [Theo Wikipedia]. Hình ảnh quyển sách cùng người con gái trang nhã, cho thấy nền tảng tri thức có tổ chức, được giáo dục và có tư cách đường hoàng.

Xuôi: chăm sóc tốt bản thân, tao nhã, có tổ chức, kiên nhẫn, được giáo dục tốt, rộng lượng, có gia giáo, giáo viên.

Ngược: buông thả, cuộc sống tình dục đầy đam mê, nghi ngờ đối phương.


Xem tất cả bài viết trong cuốn Dreaming Way Tarot: Con Đường Mơ Mộng của Hằng Phí.
Hằng Phí, thành viên Tarot Huyền Bí, quản trị viên của Dreaming Way Tarot Việt Nam và trang Dreaming Way Tarot. Bài viết tổng hợp từ nhiều nguồn và mang quan điểm của tác giả.
Đọc tiếp »

Tổng Hợp Biểu Tượng Trong Lá The Empress Của Dreaming Way Tarot

item-thumbnail
The Empress đóng vai trò trợ giúp và quan tâm tới những người khác thay vì dẫn dắt người khác. Giống như Đất Mẹ cho ta sự sống, nàng mang trong mình sự đại lượng của tự nhiên. Nàng khuyến khích cho sự phong phú và quyền quý. Lá The Empress liên quan tới mang thai và sinh nở. 

The empress trong Dreaming Way Tarot. Ảnh: internet

Trước hết hãy phân tích hình ảnh Vương Miện. Vương miện hay mũ miện là một chiếc mũ đội đầu tượng trưng cho một hình thức hay biểu tượng truyền thống của của nhà vua, Hoàng đế, Giáo hoàng hay một vị thần thánh, trong đó vương miện truyền thống đại diện cho quyền lực, tính hợp pháp, sự bất tử, sự công bình, chiến thắng, sự tái sinh, danh dự và vinh quang của người đội nó. Vương miện cùng với ngai vàng và quyền trượng hoặc bảo kiếm là ba bảo vật tượng trưng cho quyền lực tối cao và uy quyền của nhà vua. Ngoài hình thức truyền thống, vương miện cũng có thể được thể hiện trong hình thức là một vòng hoa và được làm bằng hoa, lá sồi hoặc gai và được đội cho những người đại diện cho phần đăng quang nhằm mục đích để tượng trưng [Wikipedia]. Trong nghệ thuật, vương miện có thể được miêu tả bằng những vật đội đầu của các thiên thần (vòng nguyệt quế) và ngày nay, vương miện còn được thiết kế để đội cho những hoa hậu đăng quang trong một cuộc thi sắc đẹp. Trong nghệ thuật tôn giáo, một vương miện với các ngôi sao được sử dụng tương tự như một vầng hào quang. Nó cho thấy thẩm quyền to lớn của Nữ Hoàng trong việc định đoạt số phận hoặc gia ân cho người khác, nắm giữ quyền lực hợp pháp cho người đội nó.

Kế tiếp là hình ảnh cánh đồng lúa mì. Lúa mì hay tiểu mạch, tên khoa họcTriticum spp. là một nhóm các loài cỏ đã thuần dưỡng từ khu vực Levant và được gieo trồng rộng khắp thế giới. Về tổng thể, lúa mì là thực phẩm quan trọng cho loài người, sản lượng của nó chỉ đứng sau ngô và lúa gạo trong số các loài cây lương thực. Lúa mì có nguồn gốc từ Tây Nam Á trong khu vực được biết dưới tên gọi Lưỡi liềm Màu mỡ (khu vực Trung Đông ngày nay) [Wikipedia]. Trong kinh thánh có trích đoạn “Simon, Simon, cẩn thận, quỷ Satan đang muốn được sự cho phép để sàng cậu như những hạt lúa mì. Nhưng tớ sẽ cầu nguyện cho cậu, rằng lòng tin cảu cậu sẽ không bao giờ bị gục gã, và một khi cậu quay lại, tiếp thêm sức mạnh cho những người anh em”. Từ xa xưa, từ trong các kinh thánh cổ, lúa mạch đã được ví như sinh mệnh của con người. Ta có thể thấy hình ảnh người mẹ mang bầu, tay vuốt ve bụng, vẻ mặt bình yên, đứng giữa cánh đồng lúa mỳ. Cũng như chờ ngày thu hoạch lúa mỳ cũng là lúc một sinh mệnh ra đời, bà ngày ngày chăm sóc nuôi nấng nó, là một người mẹ vĩ đại.

Hình ảnh Nữ Hoàng với áo choàng trắng gợi nhớ đến hình ảnh Đức Mẹ Maria Fatima. Hình ảnh áo choàng trắng được đặc cách trong tôn xưng Fatima. Nên nhớ rằng, ngoài danh hiệu Đức Bà, Maria còn một danh hiệu nữa là Maria Trinh Nữ Vương, gợi nhớ tới hình ảnh Nữ Hoàng. Đức Mẹ Fatima là một trong số nhiều tước hiệu mà người Công giáo dành cho Maria. Tước hiệu này phát xuất từ việc Đức Mẹ hiện ra 6 lần với 3 em bé chăn cừu làng Fatima (Bồ Đào Nha) là Lúcia dos Santos, Francisco Marto và Jacinta Marto từ ngày 13.5 tới ngày 13.10.1917. Tước hiệu Đức Bà Mân Côi cũng được dùng để ám chỉ người phụ nữ đã hiện ra này. Các trẻ kể rằng người phụ nữ này đã đích thân xưng mình là "Đức Mẹ Mân Côi". Ngoài ra cũng thường thấy một tước hiệu gọp lại từ hai tước hiệu trên: "Đức Mẹ Mân Côi Fatima" (tiếng Bồ Đào Nha: Nossa Senhora do Rosário de Fátima).

Xin lượt sử về sự kiện Fatima được lấy từ Wikipedia. Năm 1917, Fatima là 1 giáo xứ nông thôn gồm khoảng 2.500 người cư ngụ rải rác trong khoảng 40 thôn xóm. Các gia đình Dos Santos và Marto cư ngụ trong thôn Aljustrel. Gia đình Dos Santos có 1 bé gái, sinh ngày 22.3.1907. Gia đình người em họ Marto có 1 con trai là Francisco Marto, sinh ngày 11.6.1908 và 1 con gái là Jacinta Marto, sinh 11.3.1910. Ba em bé này thường chăn dắt đàn cừu tại bãi gọi là «Cova de iria», cách thôn chừng 2 km. Trong năm 1915, Lúcia, Francisco và Jacinta đã gặp thiên thần hiện ra với chúng ở bãi này. Khi về nhà thuật lại với cha mẹ, chúng bị cha mẹ mắng, cho là đặt chuyện nói láo. 

Ngày 13.5.1917, vào lúc trưa, 1 bà mặc áo trắng toát hiện ra với 3 em bé chăn cừu, nói với các em là hãy lần chuỗi đọc kinh Mân Côi hàng ngày để cầu nguyện cho thế giới chấm dứt chiến tranh, được hòa bình. Trước khi biến đi, Bà bảo 3 em hãy trở lại nơi đây đúng giờ trưa ngày 13 tháng sau. Jacinta - quên giữ kín - về nhà thuật lại sự việc cho cha mẹ nghe. Tin này loan truyền nhanh khắp làng. Mọi người tỏ ra không tin. Vị linh mục chính xứ hỏi Lúcia, nhưng cũng không tin. Trong báo cáo gửi lên Giám mục cai quản giáo phận Leiria, vị linh mục viết:"cần phải xa lánh chuyện này".

Ngày 13 tháng 6, đúng giờ trưa, 3 em lại tới nơi hẹn, theo sau có khoảng vài chục người tò mò đến xem sự thể ra sao. Mọi người lần chuỗi đọc kinh. Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em, nhắc Lúcia về tầm quan trọng của việc đọc kinh Mân Côi câu nguyện dân kính "trái tim vô nhiễm Maria", đồng thời báo trước cái chết của hai anh em Francisco và Jacinta Marto: "Ta sẽ sớm đưa Francisco và Jacinta về trời, còn con, con sẽ ở lại thế gian một thời gian. Chúa Giêsu muốn dùng con để loan truyền cho mọi người biết ta và yêu mến ta". Đức Mẹ cũng yêu cầu Lúcia học chữ để dễ loan báo lời Đức Mẹ cho các người khác. Những người đi theo không nhìn và nghe thấy gì. Họ chỉ nhìn thấy cành cây nhỏ (mà Đức Mẹ đứng) trĩu xuống dưới sức nặng, rồi đột nhiên bật lên (khi Đức Mẹ biến đi).

Ngày thứ Sáu 13.7.1917, «bà mặc áo trắng» lại hiện ra với 3 em - có khoảng 4.000 người theo sau. Đức Mẹ vẫn nhắc Lúcia việc đọc kinh Mân Côi mọi ngày, để chiến tranh chóng chấm dứt. Lần này Đức Mẹ tiết lộ cho 3 em "bí mật" gọi là "bí mật Fatima". (Năm 1942, 2 bí mật đầu đã được công bố, còn bí mật thứ 3 thì mãi tới năm 2000, Giáo hội Công giáo Rôma mới công bố). Ngày 10.8.1917, viên chánh tổng - người chống đối hàng giáo sĩ - đòi 3 em Lúcia, Francisco và Jacinta tới để tra hỏi, nhưng không có kết quả. Ngày 13.8, ông ta nhốt 3 em vì làm rối loạn trật tự công cộng và tiếp tục tra hỏi, nhưng hoài công. Rốt cuộc, ngày 15.8, ông ta phải thả 3 em ra.

Tuy nhiên, ngày 13.8, có khoảng 18.000 người tới bãi chờ xem sự lạ, nhưng 3 em vắng mặt vì còn bị nhốt. Chúa nhật 19.8, khi 3 em dẫn đàn cừu tới thả ở bãi Cova de iria, Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em, yêu cầu các em nói với mọi người cầu nguyện cho những người tội lỗi mau thống hối và hứa sẽ làm 1 phép lạ cho mọi người tin. Ngày 13.9, có khoảng 30.000 người tụ họp tại bãi Cova de iria, cầu nguyện cùng với 3 em. Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em và cho biết tháng sau, sẽ có Chúa, Đức Mẹ núi Carmêlô, thánh Giuse và Chúa Hài đồng Giêsu sẽ cùng tới. Ngày 13.10.1917, mưa như trút nước trên bãi Cova da Iria. Một đám đông khoảng 70.000 người - kể cả nhiều phóng viên chụp hình và các ký giả - tụ tập tại đây lần chuỗi, đọc kinh cầu nguyện. Lúc giữa trưa, Đức Mẹ hiện ra với 3 em và yêu cầu cho xây 1 nguyện đường tại đây để vinh danh Đức Mẹ. Đức Mẹ cũng loan báo thế chiến thứ nhất sẽ sớm chấm dứt và yêu cầu những kẻ có tội hãy mau sám hối.

Khi Đức Mẹ biến về trời thì mưa ngưng rơi, mặt trời xuất hiện trên bầu trời xanh biếc. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào mặt trời và thấy mặt trời nhảy múa, tung ra các chùm tia sáng nhiều màu. Mặt trời dường như xuống thấp gần trái đất, khiến đám đông sợ hãi. Việc lạ xảy ra trong 10 phút, sau đó mọi sự trở lại bình thường. Hiện tượng này được hầu hết đám đông chứng kiến, và một số người ở cách đó mấy dặm cũng nhìn thấy. Trong thời gian này, các nhà khoa học trên thế giới không hề ghi nhận 1 hiện tượng khác thường nào của mặt trời. Trong khi đó, riêng 3 em nhìn thấy Thánh Gia, rồi Đức Mẹ Sầu Bi, Chúa Hài Đồng Giêsu và sau chót là Đức Mẹ núi Carmêlô lần lượt xuất hiện như đã hứa trước với 3 em.



Hình ảnh Đức Mẹ lồng trong hình ảnh Nữ Vương đại diện cho thần quyền của người nữ trong việc phân phối sự màu mỡ và sự bảo vệ con người. Bà đảm nhận vai trò người nữ vương trong các vấn đề chăm sóc, sinh nở, cũng như sự hoà hợp với thiên nhiên.


Xuôi: mang thai, sinh mệnh sắp chào đời, thụ động trong tìm kiếm công việc, thân thiện, ấm áp, bà nội trợ, y tá, người chăm sóc, người mẹ, hòa hợp với tự nhiên. 

Ngược: sảy thai, sơ sài, vô trách nhiệm, tỉ mẩn, hay xen vào chuyện của người khác.


Xem tất cả bài viết trong cuốn Dreaming Way Tarot: Con Đường Mơ Mộng của Hằng Phí.
Hằng Phí, thành viên Tarot Huyền Bí, quản trị viên của Dreaming Way Tarot Việt Nam và trang Dreaming Way Tarot. Bài viết tổng hợp từ nhiều nguồn và mang quan điểm của tác giả.
Đọc tiếp »

Tổng Hợp Biểu Tượng Trong The Magician Của Dreaming Way Tarot

item-thumbnail
The Magician là một trong hai người duy nhất trong bộ bài tarot có dải Mobius. Một người mang ý nghĩa là sự thông thái và người còn lại là sức mạnh và tình yêu. Dải Mobius cũng chỉ sự vô tận, vì vậy, lá The Magician mang ý nghĩa là trí tuệ vô hạn. Người này có thể hoàn thành công việc của mình một cách hiệu quả nhất và có tham vọng thành công trong mọi chuyện. Thông thường lá bái này chỉ một người từ 20-40 tuổi.

The magician trong Dreaming Way Tarot. Ảnh: Internet

Đầu tiên là hình ảnh Mobius. Mặt Mobius hay dải Mobius (Mobius band/ Mobius strip), về toán học là một khái niệm cơ bản về một dải chỉ có một phía và một biên. Lúc đầu chỉ như một trò chơi vì xuất xứ từ một dải băng giấy (do Mobius công bố) được dán dính 2 đầu sau khi lật ngược một đầu 1 hoặc 2 lần. Về sau các nhà toán học nâng lên thành lý thuyết, lập công thức tính toán. Không chỉ vậy, lý thuyết về dải Mobius còn được ứng dụng vào thực tế trong các lĩnh vực như: kiến trúc, xây dựng,... Ngạc nhiên hơn, dải Mobius còn được ứng dụng vào nghệ thuật, bao gồm: Âm nhạc (Bach), hội họa (M.C. Escher), điêu khắc, kim hoàn, thủ công.v.v.Có thể dễ dàng được tạo ra bằng cách dùng một dải giấy và cho xoắn một nửa và sau đó dán hai đầu của dải với nhau để tạo thành một vòng.



Trong không gian Euclid có hai loại dải Mobius tùy thuộc vào chiều xoắn: thuận chiều kim đồng hồ và ngược chiều kim đồng hồ. Mặt Mobius được đặt theo tên nhà toán học và thiên văn học người Đức August Ferdinand Möbius tìm ra vào tháng 9 năm 1858, trong quá trình nghiên cứu các đa diện, mặc dù nhà toán học người Đức Johann Benedict Listing đã nghiên cứu nó độc lập từ trước đó ít lâu vào tháng bảy năm 1858. Mặt Mobius không phải là một bề mặt chỉ có duy nhất một dạng hình học (tức là chỉ có một kích thước và hình dạng nhất định), chẳng hạn như dải giấy được xoắn nửa vòng như hình minh hoạ. Do đó, các nhà toán học đã nghiên cứu mặt Mobius (ngầm hiểu là Mobius đóng) như bất kỳ bề mặt nào có hình học topo tương đương với dải này.Biên của nó là một đường cong đơn đóng, có thể là topo hình học của một vòng tròn. Điều này cho thấy có rất nhiều các phiên bản hình học của các dải Mobius như thể mỗi bề mặt này đều có một hình dạng và kích thước xác định. Ngoài những ứng dụng trong toán học, vật lý, kiến trúc…nó còn mang trong mình tính biểu tượng - ngoài việc mang ý nghĩa là không giới hạn, nó còn đại diện cho tình yêu, đức tin vào sự trường tồn đối với một lý tưởng sống hoặc một con người nhất định.



Hình ảnh kế tiếp đầy ấn tượng là hình ảnh của kính mắt (tôi nhớ đến Harry Porter trong hình ảnh của The Magician). Đầu tiên, hãy lược sử một chút về chiếc kính mắt. Hình dạng ban đầu của kính mắt được xác định đơn giản chỉ là một thấu kính bằng thạch anh được tìm thấy trong di chỉ khảo cổ ở Iraq. Tuy nhiên, những chiếc kính mắt thực sự được ghi nhận đầu tiên vào năm 1021. Cuối thế kỉ 12, kính đã xuất hiện ở Trung Quốc và châu Âu. Thấu kính của Trung Quốc kích thước to hình tròn được lồng vào khung bằng mai rùa đen với chân gọng kính bằng đồng kẹp vào búi tóc. Thời kì đầu kính đeo mắt là loại kính đơn khi dùng thì cầm trên tay. Kính chỉ được dùng cho những người có địa vị trong xã hội chứ không nhằm mục đích để tăng thị lực. Thế kỉ 13, kính mới được dùng rộng rãi ở châu Âu. Trong một bức vẽ của Tommaso da Modena vào năm 1352 có mô tả Hồng y Hugh de Provence đeo kính mắt. Bấy giờ, thiết kế của kính đeo mắt chỉ gồm 2 mắt kính nối với nhau bằng một gọng cứng đè lên đầu mũi, hai bên có dây đeo vào lỗ tai. Năm 1784, Benjamin Franklin phát minh ra loại kính có 2 tiêu điểm, mà ngày nay được biết đến với tên gọi kính 2 tròng (bifocal). Năm 1887, kính áp tròng ra đời. Năm 1930, một chuyên gia quang học ở Luân Đôn sáng chế ra hai càng (ngày nay gọi là gọng kính) để mắt kính gá vào một cách chắc chắn [Trích từ Wikipedia]. Hình ảnh chiếc kính gắng liền với hình ảnh của tri thức và quý tộc (những người nắm giữ tri thức đó). Ở phương Tây, cho đến thế kỉ thứ 18, giới quý tộc vẫn là chủ đạo và đóng vai trò vô cùng quan trọng trong xã hội. Thậm chí cho đến tận ngày nay, Vương quốc Anh vẫn phong tước và danh hiệu cho những người cao quý. Khi xã hội quý tộc ở phương Tây trở thành xã hội của thường dân, tầng lớp trung lưu cũng không hề tạo ra làn sóng phủ nhận và phê phán văn hóa quý phái. Trái lại, họ còn gửi con em mình đến học ở những trường học ưu tú để học hỏi, để được tặng danh hiệu về tất cả các loại biểu chương hay trang phục, một huy hiệu và một tước vị cao quý, để qua đó họ có thể kế thừa hoàn chỉnh thể hiện của sự cao quý.

Ta đi sâu phân tích bộ đồ của nhân vật. Màu trắng đi liền với sự trong trắng, tinh khiết, thánh thiện và trinh nguyên. Được xem là màu của sự hoàn thiện. Màu trắng còn có ý nghĩa đơn giản và an toàn.Màu trắng đại diện cho sự khởi đầu thành công, niềm hi vọng trong khi ngược lại đó, Màu đen đi liền với quyền lực, thanh nhã, trang trọng. Ở một góc nhìn khác màu đen là hình tượng của cái tang tóc, cái chết, huyền bí và của quỷ (evil - devil). Màu đen còn là màu của sự sợ hãi và bí ẩn (lỗ đen vũ trụ). Nó thường đem lại ý nghĩa tiêu cực (danh sách đen, truyện/sách/báo đen, ngày đen tối). Nhưng nó đôi khi mang lại ý nghĩa cực kỳ tiêu cực nếu được sử dụng hợp lý: nó bao hàm ý nghĩa trang trọng, lịch thiệp và quý phái: đây là lý do tại sao các loại xe cao cấp (Mercedes, BMW, ...) đều có màu đen. Là một màu luôn mang lại sự huyền bí nhưng sang trọng. Trong cuộc sống màu đen luôn có một sức hấp dẫn, lôi cuốn và vô cùng bí ẩn. Nó có khả năng che lấp mọi cái xấu, mọi cái không tốt của con người. Màu đen còn là biểu tượng của cái ác, của những thế lực xấu xa, đen tối. Nếu coi cuộc sống này là một bộ phim thì màu đen là những nhân vật phản diện. Khi ngắm nhìn màu đen con người ta vừa có cảm giác run sợ, vừa có cảm giác bị lôi cuốn kích thích trí tò mò. Trong cuộc sống những người thực sự thích màu đen không nhiều. Nhưng những người thích sử dụng màu đen lại nhiều vô kể. Bởi trong quan niệm hiện đại, màu đen mới là biểu tượng của giàu sang và quyền lực. Ta có thể thấy ngay được sự đối lập của 2 màu sắc này trong trang phục của vị pháp sư này, mang cảm giác vừa quyền lực đáng tin nhưng cũng cần thận trọng.

Kế đến là bốn hình ảnh : chiếc gậy, đồng tiền, cây kiếm, cốc nước tượng trưng cho 4 nguyên tố lửa, đất, khí và nước. Theo như bài viết của Francois Louis: “Theo các tài liệu cổ xưa, Vật Chất Đầu Tiên (First Matter) được hình thành từ ĐẤT, LỬA, NƯỚC VÀ KHÍ. Đây cũng là 4 cột trụ của thế giới. Theo nhà giả kim Ba Lan Michael Sendivogius (1566-1636). Đó là sự bắt nguồn của sự tiến hóa và ra khỏi khuôn đúc của những sự lộn xộn "Vật Chất Đầu Tiên" bằng bàn tay của Đấng Sáng Tạo, và nó cũng là hành động trái ngược để duy trì sự hài hòa và cân bằng trần thế của cỗ máy vũ trụ; đó chính là 4 nguyên tố, mà thông qua các ảnh hưởng của thiên đàng, tạo ra tất cả mọi thử bên trên và dưới Trái Đất. 

Như vậy, Bốn Nguyên Tố được đặt tên theo những nguyên mẫu cơ bản trong vật chất và là biểu tượng của những đặc tính siêu hình. Là những loại nguyên mẫu, các nguyên tố nằm ngoài bất kỳ lời giải thích hợp lý nào và phải có kinh nghiệm mới mới thấu hiểu được chúng. Triết gia người Pháp Gaston Bachelard (1884-1962) đã kết luận rằng bốn nguyên tố là kết quả của “vật chất tạo nên hình ảnh” hoặc “ sự tưởng tượng vật chất” trong Nhất Tâm của vũ trụ. Ông nhìn vào sự tương tác của các nguyên tố từ quan điểm của mỗi nguyên tố đã từng tìm kiếm. “ Niềm vui của Đất là giàu có và trở ngại”, ông nói rằng “ Niềm vui của Nước là mềm mại và nghỉ ngơi; Sự hân hoan của Lửa là khát vọng và tình yêu, sư vui sướng của Khí là tự do và chuyển động” 

Như vậy ta có thể thấy 4 nguyên tố chính là tượng trưng cho thế giới này, Các nhà chiêm tinh cổ đại cho rằng lửa chính là nguồn sáng tạo vĩnh cửu. Ngọn lửa đầu tiên là Big Bang - vụ nổ lớn làm sinh ra vũ trụ và khiến thế giới bắt đầu. Lửa sinh nhiệt trong sự sôi nổi, hoạt động và ham muốn. Lửa giúp tạo ra nhiệt lượng, ánh sáng và chuyển động, nhưng sự bừng cháy hừng hực đó phỏng có ích gì nếu chúng chẳng hướng đến đâu? Nếu không có đất, lửa có thể sẽ tự thiêu trụi mình giống như que pháo trên bầu trời đêm. Đất giúp tập hợp năng lượng của lửa bằng cách chuyển tiếng xèo xèo thành những thứ hữu hình. Khí có mặt khắp thế giới, có chức năng kết nối, là thứ không thể thiếu được và cũng là thứ để duy trì lửa. Nước có chức năng nuôi dưỡng mọi vật để bắt đầu cho 1 chu kỳ mới, là dòng uyển chuyển, cân bằng mọi thứ. [Trích từ cuốn Vầng Dương Ló Dạng, Rae Orion].

Và với mọi người sử dụng tay của mình để nâng đồ vật, thì vị pháp sư này lại dùng sức mạnh tâm linh và ý chí để nâng chúng lên. Người này đã dùng khả năng tập trung và sự luyện tập của mình để điều khiển 4 nguyên tố.

Xuôi: thông minh, khéo léo, thu hút, sáng tạo, tự tin, đa tình, được quan tâm chăm sóc, hướng ngoại, một kỹ sư, lập trình viên hoặc một nhà hoạch định chiến lược.

Ngược: cay đắng, quá tự tin, lừa dối không cố ý, làm ăn thất bại.


Xem tất cả bài viết trong cuốn Dreaming Way Tarot: Con Đường Mơ Mộng của Hằng Phí.
Hằng Phí, thành viên Tarot Huyền Bí, quản trị viên của Dreaming Way Tarot Việt Nam và trang Dreaming Way Tarot. Bài viết tổng hợp từ nhiều nguồn và mang quan điểm của tác giả.
Đọc tiếp »

Tổng Hợp Biểu Tượng Trong The Fool Của Dreaming Way Tarot

item-thumbnail
Bạn đã đủ trưởng thành để tự bước đi trên con đường do chính bạn tạo ra. Bạn muốn tiếp tục phát triển để làm thêm thật nhiều điều. Bạn có thể dễ dàng hiểu ý nghĩa của lá bài này khi tưởng tượng ra một đứa bé chui ra khỏi bụng mẹ khi đã sẵn sàng với cuộc sống bên ngoài. Lý do nó ra ngoài là để lớn lên và trải nghiệm nhiều hơn. Lá bài này ám chỉ sự quay lại của sự ngây thơ và những hành động không đoán trước được.

The fool trong Dreaming way tarot. Ảnh: internet
Hình ảnh hoa cúc dại là hình ảnh đầu tiên tôi muốn phân tích. Cúc dại là loài hoa nhỏ thường mọc hoang, có những cánh trắng ngần, từ giữa tỏa ra như hình nan hoa quanh một nhụy vàng tươi. Đây là loại hoa của trẻ em. Chúng thường thích hái Cúc dại để kết thành bó hay xâu thành chuỗi. Ở bên Anh, Cúc dại còn được gọi là Baby's pet hay Bairnwort có nghĩa là hoa trẻ em. Tên tiếng Anh - Daisy - của loài hoa này bắt nguồn từ một từ Saxon, day’s eye, có nghĩa là “con mắt ban ngày”, có lẽ vì hoa nở cùng với ánh sáng ban mai rồi khép lại những cánh trắng khi chiều xuống [Ngôn Ngữ Loài Hoa, Bách Khoa Tri Thức]. 

Theo thần thoại La Mã, bông hoa nhỏ bé này có nguồn gốc từ Belides, một trong các nữ thần chăm sóc các khu rừng. Một hôm, khi Belides đang nhảy múa với người yêu của mình là Ephigeus, cô đã lọt vào mắt xanh của Vertumrus, vị thần cai quản các vườn cây. Để bạo vệ cô khỏi sự săn đuổi này, Flora, nữ chúa các loài hoa, đã biến cô thành một đóa cúc trắng. Theo truyền thuyết của người Ailen cổ, hoa cúc trắng chính là linh hồn của những hài nhi đã chết khi vừa mới sinh ra. Thiên Chúa rải hoa cúc khắp núi đồi và thảo nguyên, khắp trần gian để làm vơi đi nỗi buồn của những người cha mẹ ấy. [Từ Điển Hoa]

Có rất nhiều loài hoa cúc khác nhau, mỗi loài đều mang cho mình những vẻ đẹp và ý nghĩa riêng, trong đó loài hoa cúc dại trắng mang trong mình ý nghĩa : Lòng cao thượng - sự chân thực, ngây thơ, trong trắng, tràn đầy năng lượng.

Kế tiếp là hình ảnh con chó. Trong nét văn hóa và tâm linh của một số dân tộc, con chó là động vật thân thiết gắn bó từ rất lâu đời với người chủ nói riêng và con người nói chung, những đức tính của chó được tôn vinh như trung thành, thông minh, quan tâm đến chủ... nó là bạn gần gũi của con người, chó canh gác nhà cửa cho con người, thậm chí có nơi chó được thờ cúng tại các đền thờ, miếu mạo.Trong văn hóa Á Đông chó được xếp vào 12 con giáp ở vị trí thứ 11 với chi Tuất và một trong những con vật thuộc lục súc. Trong quan niệm của người Việt thì chó là con vật có thể đem đến những điều may mắn, mang đến thuận lợi và nhiều niềm vui (mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang). Có người đã từng nói “ Bất kì ai nói rằng kim cương là nguời bạn tốt nhất của phụ nữ thì chắc hẳn rằng họ chưa từng nuôi chó bao giờ ”. Tục thờ chó khá phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới, và có ở hầu khắp thần thoại các dân tộc ở Đông Nam Á lục địa. Ban đầu tục này xuất phát từ các dân tộc chăn nuôi gia súc khu vực Tây Nam Á, với vai trò canh giữ đàn gia súc. Sau đó có thể người Ấn–Âu từ thời đồng thau đã mang vào Đông Á truyền thống chăn nuôi cùng với tín ngưỡng thờ chó. 

Trong thần thoại vùng Địa Trung Hải và Cận Đông, hình tượng chó, kẻ canh giữ gia súc đã sớm chuyển thành kẻ canh giữ thế giới âm phủ. Huyền thoại ở nhiều nước trên thế giới đều có liên quan đến chó như: Thiên khuyển, Cerbère (chó Ngao Xéc-be) và gắn liền với Thần Chết, với âm phủ, với hạ giới, theo đó chó có nhiệm vụ dẫn hồn, dẫn dắt con người trong bóng đêm của cõi chết. Người Mễ Tây Cơ cổ nuôi những con chó chuyên để làm bạn đồng hành và dẫn đường cho những người chết sang thế giới bên kia. Tại Nouvelle - Guinée, nhiều bộ tộc cho rằng con chó đã đánh cắp lửa của chủ nhân đầu tiên là con chuột. Trong quan niệm của người Mường, Gà và Chó đóng vai biểu tượng của Sống (sáng) và Chết (tối) ở hai thế giới đối nghịch nhau trong không gian, đại diện cho các loài sống dưới thấp, trên mặt đất. Ở Nhật Bản, chó là bạn trung thành của người. Trong Đạo Hồi con chó thành hình ảnh của tất cả những gì xấu xa đê tiện nhất trong thế gian, tự đồng hoá mình với con chó ăn xác chết, chó là biểu tượng của sự tham lam, sự phàm ăn.

Bầu trời đầy mây là ám hiệu gì trong lá bài? Mây mang đến những dấu hiệu tốt lành, hạnh phúc. Đối với cư dân nông nghiệp, mây dấu hiệu báo hiệu cơn mưa. Cuộc “mây mưa” còn được ví như hành vi tính dục, có ý nghĩa phồn thực. Đối với cộng đồng, cá nhân, mây mang đến điềm báo cát tường, như mây ngũ sắc cũng có nghĩa là ngũ phúc. Khi đức Phật ra đời, có mây ngũ sắc toả ánh hào quang. Trong những lễ tế thần, người xưa quan niệm có ứng nghiệm là khi có những đám mây trắng hoặc mây ngũ sắc hiện ra. Với ý nghĩa trên, hình tượng mây được những người nghệ nhân dân gian xưa bố trí trong những đồ án trang trí cùng với Tứ linh như long vân khánh hội, long ẩn vân, phượng mây, mây nâng vòng Thái cực... Nhưng khi bầu trời có quá nhiều mây, thì có lẽ nó lại trở thành điểm bất lợi, dường như mây đã che lấp, che giấu đi nhiều thứ. Khiến điều chúng ta thấy chỉ là những điều đẹp đẽ, bồng bềnh, cổ tích, nhưng chúng cũng giống như những đám mây kia vậy, chúng không có thật và cũng không thể chạm vào được. Và biết đâu, ở sâu bên trong đó là những hiểm nguy, là đáy vực sâu, là những sự thật tàn khốc. Trong kinh thánh có câu “Màn mây bao phủ và đã khiến Ngài ấy không thể nhìn thấy chúng ta, và Ngài ấy đang bước lên trên những đám mây”. 

Kế tiếp là màu sắc chính trong lá bài. Xanh lá cây là màu của sự sống, sự vận động. Màu này không xuất hiện nhiều trong cuộc sống con người nhưng lại có mặt ớ khắp mọi nơi trong tự nhiên Trong thực tế không có nhiều người thích màu xanh lá cây. Đơn giản bởi vì khi nhìn vào nó con người ta không có được cảm giác nhẹ nhàng, bình yên. Nó luôn khiến con người ta phải vận động, suy nghĩ.Đây là màu của tự nhiên, của môi trường – một màu tươi tắn, tượng trưng cho sức sống và niềm hi vọng. Màu xanh lá thể hiện ước mơ về một thế giới thật tươi, thật xanh và thật êm dịu, nó còn mang ý nghĩa của sự phát triển và hy vọng. Màu xanh lá cây giờ đây không chỉ có ý nghĩa về màu sắc. Nó còn là biểu tượng của hệ sinh thái và sử dụng như một động từ. Đã từ rất lâu, xanh lá cây là biểu tượng cho sự phát triển, tái sinh, và khả năng sinh sản. 

Trong thời kỳ Ngoại Giáo, "Green Man" là biểu tượng của sự sinh sản. Trong các nước hồi giáo, xanh lá là màu thánh thiện và tại Ireland nó là màu may mắn. Nó cũng là màu của thiên đường trong triều nhà Minh. Ngày nay màu xanh lá cây có thể nhìn thấy trong rất nhiều thứ: món súp đậu, thảm, tường phòng tắm, mù tạt… Trong tiếng Anh nó phản ảnh một số đặc tính kỳ lạ: Bạn có thể thấy màu xanh với sự ghen tỵ, màu xanh lá ở phía sau tai, hoặc hiển thị sự ốm yếu. (trong tiếng Anh Mỹ, nó có nghĩa là rất ghen tỵ, chưa trưởng thành và buồn nôn). 

Trang phục hay y phục là những đồ để mặc như quần, áo, váy,... Ngoài ra, trang phục còn có thể thêm thắt lưng, găng tay, đồ trang sức,... Chức năng có bản nhất của trang phục là bảo vệ thân thể. Tiếp đó, trang phục cũng có chức năm thẩm mỹ, làm đẹp cho con người. Vì những khác biệt văn hóa, trang phục của từng quốc gia, địa phương có những điểm khác nhau. Lý do xuất phát từ những khác biệt về lịch sử, trình độ văn minh, kinh tế, địa lí, khí hậu, tín ngưỡng, phong tục, tập quán... Trang phục cũng là thứ có thể giúp nhận biết đẳng cấp, giai cấp của người mặc. Trang phục có thể chia thành nhiều loại. Chắc hẳn không phải vô tình mà tác giả đã cho chàng The Fool khoác trên người bộ trang phục xanh lá, nó dường thể hiện cho chúng ta thấy rằng chàng trai trẻ này mang theo người những ước mơ tươi đẹp, nhưng hoài bão tràn đầy hy vọng. Nó là màu xanh của thanh xuân, của tuổi trẻ, của sự phát triển không ngừng như những mầm non. 

Cũng tương tự như vậy. Màu đỏ là màu của lửa và máu, nó đi liền với sức mạnh, quyền lực, sự quyết tâm; nó cũng là biểu tượng của sự đe dọa, nguy hiểm và chiến tranh. Màu đỏ cũng là màu của cảm xúc, nhiệt huyết và tình yêu. Màu đỏ là màu của sự dũng cảm và hy sinh, đó là lý do ta thấy một số quốc kỳ của một số nuớc (trong đó có Việt Nam) có màu đỏ là màu nền. Màu đỏ không tượng trưng cho cái ác nhưng nó luôn đem lại cảm giác sợ sệt, chùn bước cho người xung quanh. Màu đỏ làm cho những người nhìn nó cảm thấy nóng hơn, khát khao hơn, nhưng cũng đề phòng hơn, cẩn thận hơn. Và chiếc mũ là vật dụng để che đầu. Nó có thể dùng để bảo vệ đầu hoặc vì các lý do nghi lễ hoặc tôn giáo, vì lý do an toàn hoặc được dùng như một phụ kiện thời trang. Có thể hiểu rằng, chàng trai này tuy mang trong mình nhiệt huyết năng lượng tuổi trẻ, nhưng có thế dẫn tới việc cậu đã để cho “cái đầu” mình quá nóng, có khi để cảm xúc lấn át, không có những suy kĩ chín chắn kĩ càng sẽ dẫn tới nhiều nguy hiểm, bất lợi. 

Ngoài ra, The Fool còn mang theo một loại túi đựng bằng vải có hai dây vắt qua vai để đeo trên lưng, màu nâu -là màu duy nhất trong bảng màu mang tính tao nhã của thiên nhiên, giản dị, gần gũi, được coi là một gam màu “đặc biệt”, bởi đôi khi nó được sử dụng như một màu trung tính Những người yêu thích màu nâu thường là những người kiên quyết, đáng tin và nghiêm nghị.Màu nâu là màu của đất, của quê hương, nó tượng trưng cho sự ổn định, bền vững, chắc chắn, bền bỉ, đáng tin cậy, sức khỏe, tính cơ bắp, mộc mạc, … Là một màu thể hiện sự nam tính, sự thoải mái về thể xác lẫn tâm hồn. Dường như chiếc túi lâu này chính là yếu tố trung hòa hai gam màu nóng – lạnh kia. Thế hiện tuy cậu có non nớt, có bồng bột nhưng vẫn mang trong mình sự kiên quyết, không bao giờ chịu khuất phục, cứng rắn như lòng đất vậy.

Theo cuốn Biểu Tượng của tác giả Tử Đinh Hương - Mặt trời là một thiên thể nóng sáng, ở xa Trái Đất, là nguồn chiếu sáng và sưởi ấm chủ yếu cho Trái Đất. Mặt trời (thái dương) thường được biểu thị bằng một hình tròn, ở giữa có một dấu chấm. Mặt trời là biểu tượng của thần linh, ánh sáng vĩnh cửu, sức mạnh vô song, công lí tuyệt đối, chân lí chói rọi và là trung tâm của vũ trụ. Rất nhiều dân tộc vẫn coi Mặt Trời mang tính “dương”, là hiện thân của Trời, là con trai của Thần Tối Cao, là người anh em của Cầu Vồng. 

Các nhà giả kim phương Tây cho rằng Mặt Trời là biều tượng của vàng – “thứ kim loại hoàn hảo nhất”. Mặt Trời cũng là đại diện cho sự hoàn thiện của mọi vật chất trong bất kể cấp độ nào, bao gồm cả tư duy, tâm linh và tâm hồn. Trong một số tôn giáo như Kitô giáo, mặt trời tượng trưng cho năng lượng, sức mạnh và sự tái sinh. Người Mỹ bản địa coi mặt trời là người giám hộ trong ngày để che chở và bảo vệ cho cuộc sống của họ. Đối với người da đỏ Zia Pueblo ở New Mexico thì Mặt Trời cũng là biểu tượng thần thánh, hình ảnh là một vòng tròn đỏ với một nhóm bốn tia sáng tỏa đi bốn hướng : đông, tây, nam, bắc. Họ thường vẽ biểu tượng Mặt Trời lên mặt đất quanh đống lửa trại trong các nghi lễ mời gọi thần Mặt Trời ló rạng trong ngày mới.”Trái với Mặt Trăng, Mặt Trời được hưởng một đặc quyền đi qua địa ngục mà không phải chịu thể thức của sự chết” – theo Truyển thuyết Trung Mĩ. 

Ở trên đầu tuy có Mặt Trời chiếu rọi, nhưng ở dưới chân The Fool lại là một vực núi sâu thẳm, nó tượng trưng cho những hiểm nguy cần phải đối đầu, và chỉ cần không để ý là sẽ bị rơi xuống. Và dường như đã có những dấu hiệu, những lời cảnh báo từ ánh nhìn của chàng The Fool, mắt của cậu hiện chỉ đang nhìn thấy bầu trời xanh, mặt trời chiếu sáng mà gần như không hề ý thức được dưới chân mình có gì.

Xuôi: đang trưởng thành, tò mò, tự do, sớm, không ổn định, không vững chắc về mặt kinh tế, nghề nghiệp tự do, và kẻ lừa gạt 

Ngược: ngây thơ, chưa trưởng thành, thiếu chú ý, thiếu ý thức về kinh tế, hôn nhân hoặc sự nghiệp không bền vững.

Xem tất cả bài viết trong cuốn Dreaming Way Tarot: Con Đường Mơ Mộng của Hằng Phí.
Hằng Phí, thành viên Tarot Huyền Bí, quản trị viên của Dreaming Way Tarot Việt Nam và trang Dreaming Way Tarot. Bài viết tổng hợp từ nhiều nguồn và mang quan điểm của tác giả.
Đọc tiếp »

Dreaming Way Tarot: Con Đường Mơ Mộng

item-thumbnail
Loạt bài này có mục đích phân tích toàn bộ hình ảnh của Dreaming Way Tarot của hai nhà hoạ sĩ người Hàn Quốc Rome Choi và Kwon Shina. Hi vọng loạt bài này hữu ích cho người muốn tìm hiểu sâu về bộ bài này. 


Dreaming Way Tarot: Con Đường Mơ Mộng
Chùm bài viết sẽ được tổng hợp thành sách, thuộc dự án Ebook Cho Tarot, dưới tiêu đề: DREAMING WAY TAROT: CON ĐƯỜNG MƠ MỘNG. Xuất bản ngay sau khi hoàn thành loạt bài viết.

Chùm bài viết là dự án hợp tác giữa Hằng Phí, quản trị Dreaming Way Tarot Việt Nam và trang Dreaming Way Tarot Fan Club và Philippe Ngo. 

"Màu trắng còn có ý nghĩa đơn giản và an toàn. Màu trắng đại diện cho sự khởi đầu thành công, niềm hi vọng trong khi ngược lại đó, Màu đen đi liền với quyền lực, thanh nhã, trang trọng. Ở một góc nhìn khác màu đen là hình tượng của cái tang tóc, cái chết, huyền bí và của quỷ (evil - devil). Màu đen còn là màu của sự sợ hãi và bí ẩn (lỗ đen vũ trụ). Nó thường đem lại ý nghĩa tiêu cực (danh sách đen, truyện/sách/báo đen, ngày đen tối). Là một màu luôn mang lại sự huyền bí nhưng sang trọng. Trong cuộc sống màu đen luôn có một sức hấp dẫn, lôi cuốn và vô cùng bí ẩn. Nó có khả năng che lấp mọi cái xấu, mọi cái không tốt của con người. Màu đen còn là biểu tượng của cái ác, của những thế lực xấu xa, đen tối. Khi ngắm nhìn màu đen con người ta vừa có cảm giác run sợ, vừa có cảm giác bị lôi cuốn kích thích trí tò mò. Trong cuộc sống những người thực sự thích màu đen không nhiều. Nhưng những người thích sử dụng màu đen lại nhiều vô kể. Bởi trong quan niệm hiện đại, màu đen mới là biểu tượng của giàu sang và quyền lực. Ta có thể thấy ngay được sự đối lập của hai màu sắc này trong trang phục của vị pháp sư này, mang cảm giác vừa quyền lực đáng tin nhưng cũng cần thận trọng.."
-Trích Dreaming Way Tarot: Con Đường Mơ Mộng



Nội Dung Đọc Trực Tuyến Trên Website

Tổng Quan:

Lời Nói Đầu 
Con Đường Mơ Mộng
Trải Bài của Dreaming Way Tarot

Ẩn Chính (Major Arcana)
[Vui lòng nhắp vào link bên dưới lá bài để đọc bài viết]
(Chú ý, bản online là bản nháp của bài viết, sẽ được viết lại trong bản gốc sách in)



Hằng Phí, thành viên Tarot Huyền Bí, quản trị viên của Dreaming Way Tarot Việt Nam và trang Dreaming Way Tarot.
Đọc tiếp »
Tiếp Tục
Trang chủ