Học Biểu Tượng trong Bộ Waite Tarot - THE MAGICIAN

Đề Nghị: Trước khi đọc bài, vui lòng xem qua những chú ý về cách viết tại đây.


The Magician được đánh số 1, số một là sự khởi đầu. Hãy nhớ câu đầu tiên trong kinh thánh bắt đầu từ mẫu tự Beth, mẫu tự được Waite gáng cho lá này. Đây là xuất phát điểm. Chữ Beth có liên hệ trong ngôn ngữ Sanskrit bằng từ Bhu, có nghĩa là "to be, to exist", "được tồn tại". Từ "build" trong tiếng Anh được xem là dẫn xuất nguồn gốc từ chữ Bhu này. Tương ứng ngữ nghĩa trong Hebrew là từ ברא Bara, tức là Beth-Reish-Aleph, là ba chữ cái đầu tiên của từ Bereishit (từ đầu tiên trong kinh thánh Cựu ước), có nghĩa “to create”, "khởi tạo, sáng tạo", tự sáng tạo tức là tự tạo ra bản thân mình. Beth còn là gì nữa? Trong tiếng Do Thái, Beth là khái niệm ám chỉ căn nhà, là nơi trú ngụ; nhưng nó còn ám chỉ những vật sở hửu của mình, chính mình, những vật phụ thuộc mình (trâu bò gia súc, nhà cửa, vợ và nô lệ). Nó còn ám chỉ đền thờ, nơi đáng tin, niềm tin và nơi đặt niềm tin. Beth ám chỉ cái gì đó nội tại, cái gì đó dạng như của riêng mình, là nền tảng của bản thân mình. Đó là ý nghĩa của chữ "self-confidence, the Querent, if male" ("tự tin vào bản thân mình, là bản thân người hỏi, nếu là nam") trong chú giải của Waite. Chú ý trong chú giải này là người chủ duy nhất của bản thân là người đàn ông, chứ không phải phụ nữ, như đã chú thích ở trên, phụ nữ và nô lệ cũng được đánh giá như đồ vật phụ thuộc. Waite mô tả về nó như sau: "with smile of confidence and shining eyes."; dịch "miệng cười tự tin và đôi mắt sáng". 

Trên đầu của magician có biểu tượng vô cực (Infinitif). Waite viết "Above his head is the mysterious sign of the Holy Spirit, the sign of life, like an endless cord, forming the figure 8 in a horizontal position", dịch "Phía trên đầu là dấu hiệu bí ẩn của Chúa Thánh Thần, dấu hiệu của cuộc sống, giống như một sợi dây vô tận tạo hình số 8 nằm ngang". Dấu hiệu vô cực này là đề xuất của Papus, sau này được Waite kế thừa. Dấu hiệu vô cực được hình thành vào thế kỷ 17 từ khái niệm "Alpha and Omega", ám chỉ khởi đầu và kết thúc. Trong bản chữ cái Hi Lạp cổ, chữ cái bắt đầu là Alpha và kết thúc ở Omega. Trong đại số sau này, người ta thường dùng chữ Omega để ám chỉ số vô cùng tận. Điều này cũng liên quan thiên chúa giáo rất nhiều. Khái niệm "Alpha và Omega" xuất phát từ sách Khải Huyền 1:8, 21:6, và 22:13 "I am the alpha and the omega"; một cách xưng của chúa Jesus. Vì vậy, dấu vô cùng này không phải ám chỉ năng lượng vô cùng tận của nhà giả thuật mà ám chỉ sự vĩnh cửu và quyền lực tối tượng của Chúa Thánh Thần. Ý tương liên hệ giữa sự vô tận và thiên chúa có lẽ bắt nguồn từ nhà toán học Descartes (người sáng tạo ra hệ trục tọa độ Đề - Các) sách "La Méditation III" nguyên văn tiếng Pháp như sau : "Par le nom de Dieu j’entends une substance infinie, éternelle, immuable, indépendante, toute connaissante, toute puissante, ... "; dịch "Tên của Thiên Chúa, tôi hiểu rằng đó là vô hạn, vĩnh cửu, bất biến, độc lập, biết tất cả, mạnh mẽ hơn tất cả, ..."; "il n’y a rien que je nomme proprement infini, sinon ce en quoi de toutes parts je ne rencontre point de limites, auquel sens Dieu seul est infini. " dịch " Không có gì mà tôi cho là vô hạn thật sự, tất cả trên đời này đều hữu hạn, chỉ duy nhất Thiên Chúa là vô hạn mà thôi". Dấu hiệu này chính là ám chỉ rằng, điều duy nhất mà nhà giả kim thực hiện là sự đón nhận ban phúc từ bên trên, từ đấng thiên chúa duy nhất. Từ đó để hiểu rõ được ý trong chú giải của Waite: "self-confidence, will;". Ngoài ra biểu tượng này còn liên quan đến rất nhiều truyền thống tôn giáo khác như Waite trình bày: "With further reference to what I have called the sign of life and its connexion with the number 8, it may be remembered that Christian Gnosticism speaks of rebirth in Christ as a change "unto the Ogdoad." The mystic number is termed Jerusalem above, the Land flowing with Milk and Honey, the Holy Spirit and the Land of the Lord. According to Martinism, 8 is the number of Christ". Bên dưới là hình ảnh "Alpha và Omega" trong một sách cổ. 

Hình ảnh hoa hồng tôi đã trích ở phần trước nên sẽ không nhắc lại nhiều. Hoa hồng này không phải là biểu tượng của tình yêu. Trong kabbalah, hoa hồng đại cho Malkuth (được mô tả bằng hình ảnh hoa hồng cấp I). Shechina, có nghĩa là đặc tính thần thánh, được mô tả bằng hình ảnh một hoa hồng có màu đỏ- trắng đại diện cho lý trí và tình cảm. Màu trắng cho tình cảm, màu đỏ cho lý trí. Ở lá này, các hoa hồng đều màu đỏ ám chỉ rằng trong lá này lý trí được đặt trên hết (khác hoàn toàn với lá Fool ở bài trước). Nhà giả kim là một nhân vật của lý trí, ông thực hiện nhiệm vụ một cách kiểm soát. Chú ý hình ảnh hoa hồng ở trên đầu. Hai phần của bông hồng tạo thành cụm 6:4. Gematria của 64 là ALHQEIA tức là sự thật tuyệt đối. Nó cũng là gematria của DIN (4+10+50=64), "công lý, phán xét". Chú ý ở cạnh bàn, một trong 3 ký hiệu ở cạnh bàn là DIN. Cụm 6:4 có tổng là 10, tức là 10 seph của Tree of Life. Hãy nhớ đến quy tắc của 3 đức tin: Adam, Chava, Noah. Gematria của Adam và Chava bằng với Gematria của Noah và bằng 64 (Adam + Cheva = 45 + 19 = 64; Adam = ADM = 40+4+1=45; Cheva = ChVH = 8+6+5=19; Noah = NVCh = 50+6+8=64). Adam, Cheva, Noah tin tuyệt đối ở chúa trời, vì vậy cũng tin tuyệt đối vào đức tin của bản thân, và tuyệt đối tin vào khả năng của bản thân. Tất cả đặc tính thiên liêng của lý trí, sự kính sùng thiên chúa đều có biểu hiện ở lá bài này. Đó chính là ý nghĩa của "self-confidence, will; the Querent" trong chú giải của Waite.

Sự kết hợp hình ảnh hoa hồng và hoa lyly ở dưới mang nhiều ý nghĩa đặc biệt. Waite đã viết như sau "Beneath are roses and lilies, the flos campi and lilium convallium, changed into garden flowers...". Đây là hình ảnh được trích từ Vulgate Bible, trong Song of Songs 2:1, nguyên văn “I am the Rose of Sharon, the lily of the valleys. As a lily among the thistles, so is my love among the thistles, so is my love among the maidens”, dịch "Ta là hoa tường vi của Sa-rôn, hoa huệ của thung lũng. Bạn tình ta ở giữa đám con gái. Như bông huệ ở giữa gai gốc". Dẫn chứng đáng coi trọng nhất là từ các tài liệu nghi lễ của Golden Dawn như "Cipher Document", trong phần "Zelator Initiation", tại dòng số 12-13 chính là cụm "Rose of Sharon. Lily of Valle". Một dẫn chứng khác từ sách của hội Thập Tự Hoa Hồng là cuốn "Brotherhood of the Rosy Cross" đưa ra chỉ dẫn tham khảo từ sách Isiah 35:1 - “The desert shall blossum as the Rose.” Ý nghĩa của cụm này trong Golden Dawn ngày nay không còn được rõ nghĩa. Robert Schuler trong tác phẩm “W. B. Yeats: Artist or Alchemist?” còn nhấn mạnh rằng, đối với thuật giả kim trung cổ, hoa lyly và hoa hồng được xem là biểu tượng của mặt trăng và mặt trời, màu đỏ và màu trắng, là biểu tượng của sự biến đổi hóa học qua sự cháy. Hình ảnh có mặt hoa lyly và hoa hồng là biểu tượng biến đổi giữa hai thế giới sống và chết, chết và hồi sinh. Từ đó để hiểu hơn ý nghĩa của Waite: "sickness, pain, loss, disaster, snares of enemies". Cái đau đớn, thất bại và thua thiệt của Waite không hàm chứa sự sụp đổ mà hàm chứa sự biến đổi tất yếu. Lá bài ẩn cả yếu tố "tốt" (hoa hồng) lẫn "xấu" (hoa Lily); nhưng không phải là tích cực hay tiêu cực, mà đó là sự biến đổi tất yếu để đạt cái trạng thái cân bằng. Trong cuốn di khảo của W. B. Yeats, nhà huyền học, nhà văn đạt giải Nobel năm 1923 và là thành viên của Golden Dawn, "The Collected Works of W. B. Yeats" (nhà xuất bản Finneran, ed., Vol 1 - The Poems, Macmillan, 1989), ta tìm được cách nhận định về hình ảnh này như “A weariness comes from those dreamers, dew-dabbled, the lily and rose, Soon far from the rose and the lily and fret of the flames would we be, Lilies of death-pale hope, roses of passionate dream.”, dịch "... hoa lyly là hi vọng của cái chết, hoa hồng là giấc mơ của sự sống đam mê". Ta thấy được ý nghĩa của lily là ám chỉ cái chết, còn hoa hồng ám chỉ sự sống. Hoa lyly là hi vọng của chết, và hoa hồng là giấc mơ của sống; có nghĩa là hoa ly ly ám chỉ cái chết nhưng chưa chắc xấu (vì có Hi vọng), còn hoa hồng ám chỉ sự sống nhưng chưa chắc tốt (chỉ là giấc mơ). Điều này giống như trong hình ảnh âm dương của châu Á. Cái chết là niềm hi vọng, và cái sống chỉ là giấc mơ. Vì vậy, khi phân tích lá này với các yếu tố tiêu cực, cần nhấn mạnh yếu tố biến đổi tất yếu của cuộc sống. Sở dĩ tôi nhấn mạnh cách nhìn của Yeats vì trong hồi ký của Waite khi thiết kế lá này đã có nói như sau: "we have had other help from one who is deeply versed in the subject."; dịch "chúng tôi đã nhờ sự giúp đỡ của một chuyên gia trong lĩnh vực này [thuật giả kim]" (Bản thảo của Waite "Occult Review"; cuốn số 10, trang 307-317, trong phần “The Tarot: A Wheel of Fortune”). Mà ta biết rằng, trong Golden Dawn, không ai rành rẽ về thuật giả kim, đồng thời lại có mối quan hệ lân cận với Waite hơn Yeats (Yeats là nhà văn nhưng lại chuyên nghiên cứu về thuật giả kim và là một học giả nổi tiếng trong lĩnh vực này). Vì vậy cần cố gắng phân tích chính xác ý nghĩa trong chú giải của Waite : "sickness, pain, loss, disaster, snares of enemies", "mental disease, disgrace, disquiet"; mà tôi cho rằng khá nhiều bạn suy diễn sai.

Bốn hoa lily đại diện cho 4 nguyên tố, 4 trạng thái trong giả kim. Bốn hoa lily theo cụm 3:1 ám chỉ sự hình thành của thế giới từ 3 sang 1. Sách Zohar chỉ rõ, thiên chúa tạo ra con người từ 3 (Lửa- Nước- Khí) đến 1 (Đất). Nhìn vào Tree of life, ta cũng thấy rõ: 3 yếu tố lửa nước khí đóng thành cặp ở phía trên, còn đất ở tận dưới. Bảy hoa hồng đại diện cho 7 hành tinh (thực ra không hoàn toàn, nó đại diện cho 7 chất đặc trưng đại diện cho 7 hành tinh trong thuật giả kim). 7 hoa hồng này chính là vàng (mặt trời), bạc (mặt trăng), đồng (Venus), sắt (Mars), kẽm (Jupiter), thủy ngân (Mercury), chì (Saturn). Một cách giải thích khác về 4 hoa lyly: đó còn đại diện cho 4 quy trình trong thuật giả kim. Bốn quy trình đó là nigredo, albedo, citrinitas, rubedo; mỗi quy trình chính là một sự biến đổi. Vì vậy, lá bài này không chỉ làm ám chỉ người thực hiện giả kim mà còn ám chỉ sự biến đổi giả kim, sự biến đổi của thế gian, và nhân vật trong lá bài là người nắm quy tắc của sự biến đổi đó, chính sự nắm rõ quy tắc đó mới là chủ đề chính của lá bài. Một số phân tích liên hệ giữa cách ăn mặc của nhà giả kim: trong trắng ngoài đỏ. chính là ám chỉ sự biến đổi từ quy trình albedo sang quy trình rubedo (từ trắng sang đỏ); hoặc quy trình biến đổi albedo nằm trong quy trình biến đổi rubedo. Tuy nhiên, lý luận này, tôi cho rằng chưa thuyết phục vì bộ bài ban đầu do Waite thiết kế, vốn không có màu. Tuy nhiên, không không rõ lần xuất bản kế tiếp vì sao lại có màu, và do ai chỉ định (thông tin cần kiểm chứng thêm). 

Ta bàn về tư thế của the magician: một tay đưa lên, một tay đưa xuống; đó là biểu tượng của thuật ngữ "As above, as below". Đây là khái niệm huyền học và giả kim rất thông dụng và được chú ý rất nhiều. Waite nói về nó như sau : "In the Magician's right hand is a wand raised towards heaven, while the left hand is pointing to the earth. This dual sign is known in very high grades of the Instituted Mysteries; it shews the descent of grace, virtue and light, drawn from things above and derived to things below. The suggestion throughout is therefore the possession and communication of the Powers and Gifts of the Spirit"[chiếm 1/5 dung lượng nói về lá bài này]. Điều đó chứng tỏ đây là một yếu tố quang trọng trong lá bài này. Tôi lượt dịch : "Trong tay phải của Magician là một cây đũa lên hướng lên trời, trong khi tay trái chỉ vào mặt đất. Dấu hiệu kép này được biết đến như bí ẩn cao nhất của huyền học; đó là nguồn gốc của đức tin, ân sủng và ánh sáng, rút ra từ trên và thu được ở dưới. Sự thành đạt[đề nghị] này được thông suốt là nhờ sở hữu và thông linh với các quyền lực và ẩn sủng từ chúa thánh thần". Biểu tượng này được Waite xem là "bí ẩn cao nhất của huyền học" và điều này là hoàn toàn xứng đáng. Biểu tượng này xuất phát từ "Emerald Tablet", còn được biết với tên "Smaragdine Table, Tabula Smaragdina, The Secret of Hermes" là một văn bản cổ [có thể xem là đầu tiên] về thuật giả kim, là văn bản chính thức tuyệt đối đúng, được cho là do Hermes Trismegistus (còn gọi là "Hermes the Thrice-Greatest") viết, và là nền tảng cơ bản của huyền học Hellenistic, giả kim thuật, huyền học thần bí ... Ý nghĩa của "As above, as below" nằm trong câu thứ 2 của tác phẩm này. Trong các bản dịch, người ta thường đánh giá cao bản dịch của Isaac Newton, nhà vật lý, huyền học, giả kim, và thần học người Anh, và tất nhiên cũng là người đưa ra luật vạn vật hấp dẫn mà chúng ta học ngày nay. Cá nhân tôi cho rằng phần dịch của Newton khá dễ hiểu: "That which is below is like that which is above that which is above is like that which is below to do the miracles of one only thing.", dịch "Luật gì tồn tại ở dưới thì cũng tồn tại bên trên, luật gì tồn tại bên trên thì cũng tồn tại bên dưới, điều thể hiện sự kỳ diệu của một luật duy nhất". Nhà giả kim trong lá bài là người được soi sáng, là người hiểu và thực hiện luật duy nhất đó. Nhà giả kim vừa là người ra luật, vừa là người thực hiện luật, và chính là luật. Nhà giả kim có trong người mọi tri thức, và mọi nguyên liệu, để có thể tự thực hiện được luật. Đó không chỉ là người thụ hưởng, mà còn là người hỗ trợ, là người cổ vũ, là người khởi xướng. Đó là ý nghĩa chính yếu của chú giải "Physician, Magus" mà tôi thấy các bạn ít khi sử dụng để diễn giải. Đó đơn giản là nguồn lãnh đạo, là nguồn tri thức, là nguồn tài vật [sẽ phân tích thêm ở hình ảnh 4 dụng cụ: tiền, gậy, kiếm, ly]. Một cách khác, lá này ám chỉ linh hồn của một sự kiện, hay sự việc cụ thể. 

Hình ảnh con rắn cắn đuôi có lẽ được nhiều bạn tìm đọc và nghiên cứu rồi, nên tôi cũng không quá đi sâu và nhấn mạnh. Đây cũng là một hình ảnh đặc trưng huyền học gọi là Ouroboros. Ý nghĩa của nó thực sự không khác nhiều so với ý nghĩa của biểu tượng vô cực. Người ta thường dùng tráo đổi 2 biểu tượng này. Dù vậy ý nghĩa của Ouroboros có phần đầy đủ hơn. Nó tượng trưng cho những thứ mang tính chu kỳ vĩnh cửu khép kín: sự sống tiếp nối cái chết, và sau đó cái chết tiếp nối tái sinh. Đó là ý tưởng về sự vận động, liên tục thành một vòng tròn bất tận. Trong giả kim, nó đại diện cho sự biến đổi vòng tròn của 4 quy trình mà trong đó sự nối tiếp tạo nên bất tử. Hình ảnh đầu tiên của Ouroboros có lẽ nằm ở cuốn "The Chrysopoeia of Cleopatra" ra đời vào thế kỷ thứ 2 ở Alexandria với thuật ngữ cũng rất nổi tiếng trong huyền học "one is the all" (Xem hình bên trên). Vấn đề lý luận về giả kim hoặc các lý thuyết huyền học rất phức tạp, ở chừng mực hiểu biết trong giới hạn của bộ bài tarot thì chỉ cần hiểu tương đối như vậy là đủ. Hình ảnh thắt lưng Ouroboros thực ra lấy từ quy cách của hội Tam Điểm. Thắt lưng Ouroboros là nghi lễ truyền thống dành cho các cấp bậc tư tế cấp cao của hội. Vì Waite cũng là thành viên, nên ông đem vào lá bài này chăng ? [Vậy thì nhân vật The Magician phải có cấp bậc 27/33 =))]. Ward trong cuốn "An Interpetation of our Masonic Symbols" cũng nhắc về điều này. Hình ảnh vô cực ở trên đầu của the Magician có lẽ xuất phát từ tác phẩm Allegoria Della Vita Umana của Guido Cagnacci (xem hình bên dưới, chú ý cành hoa trắng-đỏ và cái vòng Ouroboros trên đầu).


Allegoria Della Vita Umana của Guido Cagnacci 

Ta phân tích đến hình ảnh cái bàn và bộ dụng cụ. Hình ảnh bộ dụng cụ gậy, ly, kiếm, tiền chắc khá quen thuộc; các bạn chắc đều hiểu rõ cả rồi. Bốn dụng cụ này đại diện cho 4 thế giới, 4 nguyên tố, ... mà nhà giả kim phải dùng qua trong quá trình biến đổi. Waite chú thích khá rõ: "On the table in front of the Magician are the symbols of the four Tarot suits, signifying the elements of natural life, which lie like counters before the adept, and he adapts them as he wills". Tôi tập trung phân tích hình ảnh cái bàn mà đa số các diễn giải đều thiếu sót. Trên cạnh bàn có 3 ký hiệu đáng chú ý: biểu tượng mặt nước, biểu tượng xác ướp, và biểu tượng chim ưng của thần Horus. Phía dưới chân bàn còn có biểu tượng DIN. Biểu tượng mặt nước có lẽ gắng với tính chất của lá bài the magician. The Magician được gán với sao Mercury (đại diện cho Nước), đồng thời là đại diện cho thần Hermes. Một điểm cần lưu ý nữa là hình ảnh con rắn và hình vô cực luôn gắng liền với hình ảnh thần Hermes. Hình ảnh xác ướp ám chỉ sự tái sinh sau khi chết, là vòng tái sinh của nhà giả kim, điều này liên hệ với hình ảnh Ouroboros bên trên. Một số lý luận khác cho rằng đây là hình ảnh của thần Osiris. Osiris là thần cai quản địa ngục và cũng là thần cai quản sự bất tử và là biểu tượng của sự tái sinh. Điều này liên quan đến truyện cổ về thần: Osiris bị chết do Set giết, Isis đã ghép từng phần thân thể của Oriris và Osiris tái sinh lại lần nữa; do đó Osiris đai diện cho sự tái sinh vĩnh cửu của sống và chết, ngày và đêm... với ý tưởng lập lại của Ouroboros. Biểu tượng Horus hình chim ưng là biểu tượng của sự dẫn dắt, biểu tượng của người lãnh đạo (mà tôi đã phân tích một phần ở biểu tượng "As above, as below" phần trên). 

Vấn đề cuối cùng là biểu tượng DIN ( trong tiếng Hebrew là nun-yod-daleth) và có nghĩa là "phân xử, phán xét" và có gematria là 64 [Như đã phân tích ở phần phân tích 6:4 bên trên]. Nghi vấn được đưa ra bởi O'Neill: Din là tên Sephira Geburah, mà lá này chỉ về path chứ không phải seph. Vì vậy sự xuất hiện của biểu tượng này là khá khó hiểu. Ông đưa ra 2 giả thiết: một là trong sách "Holy Kabballah", Waite gáng cho Geburah giá trị vàng, tức là cuối quá trình giả kim (hoặc tương ứng quy trình citrinitas), vì vậy DIN ám chỉ rằng Magician đã đạt mốc cuối cùng của nhận thức; hai là DIN ám chỉ sự hoàn chỉnh trong đức tin thông qua việc sử dụng sự "cân bằng" của thiên nhiên một cách thụ động, như dẫn trích Kinh thánh Jobs 36:31. Cả hai giả thiết đều gượng ép, tuy nhiên giả thiết 1 khả dĩ hợp lý trong trường hợp này, như tôi đã phân tích ở phần trên.

Đây là một trong những lá bài ưu thích của tôi. Hiếm có hình ảnh nào lại tập trung cao độ tính biểu tượng trong giả kim thuật như lá bài này. Waite giống như nhiều nhà huyền học khác trong hội Thập Tự Hoa Hồng, thường viết với nhiều ẩn dụ. Khác với Mathers, hay Crowley thường ghi rõ ràng trong tác phẩm của mình các chỉ dẫn cần thiết; Waite thì giống Levy và Wirth không bao giờ viết ra rõ ràng mà luôn bắt người đọc suy nghĩ tìm hiểu thêm. Ở lá bài này, trong phần giải thích, Waite không hề nói gì đến tính biểu tượng của Ouroboros, cũng không hề nhắc gì đến biểu tượng "As above, as below", càng không giải thích về Gematria dày đặc trong lá bài. Vì vậy, đọc Pictoral Key of Tarot của ông, mà không tìm hiểu sâu hơn về biểu tượng học, thì thực ra chẳng hiểu gì cả. Tất cả đều phải bắt người đọc tìm thấy, và chỉ khi nào tìm thấy, thì mới hiểu được chính xác điều Waite muốn trình bày. 

Cuối cùng, hãy xem lại toàn bộ chủ giải của Waite về lá bài này: Skill, diplomacy, address, subtlety; sickness, pain, loss, disaster, snares of enemies; self-confidence, will; the Querent, if male. Reversed: Physician, Magus, mental disease, disgrace, disquiet.

Philippe Ngo, sáng lập Tarot Huyền Bí, một người nghiên cứu tarot tại Pháp.
DMCA.com Protection Status
Bài viết "Học Biểu Tượng trong Bộ Waite Tarot - THE MAGICIAN" có bản quyền, được bảo vệ bởi DMCA. Bất kỳ hình thức sao chép lại ở các trang khác mà không tuân thủ các điều khoảng sử dụng của chúng tôi sẽ được thông báo đến DMCA để thực hiện gỡ bỏ khỏi hệ thống tìm kiếm của Google và Bing. Truy cập DMCA.COM để biết thêm về các biện pháp trừng phạt do vi phạm bản quyền nội dung số.
Trang chủ