Tarot Huyền Bí Blog thủ thuật
10/10 1500 bình chọn

Tarot Cấm Thư - Cấu Trúc Nghĩa Ngược

item-thumbnail
 Khiêu Vũ Cùng Những Lá Bài Ngược 

Khi thực hành con đường Tarot, một vấn đề bạn sẽ gặp gỡ chính là làm sao để đọc hay hiểu những thông điệp của các lá bài ngược. Và tại vì sao, có những lá ngược lẫn xuôi. Và nên sử dụng các lá bài xuôi ngược hay chỉ cần bài xuôi. Tất cả các câu hỏi, sẽ có hướng gợi mở trong phần này. Đồng thời, chúng tôi cũng sẽ cung cấp cho bạn những phương pháp để có thể tiếp cận các vấn đề thuận lợi.

***



I. Nguồn Gốc Nghĩa Ngược:

Để tìm hiểu nguồn gốc nghĩa ngược, cần quay trở lại lịch sử huyền bí của Tarot tại Pháp Quốc.
Năm 1770, cuốn sách “Etteilla, ou manière de se récréer avec un jeu de cartes” của Etteilla được ấn hành, cuốn sách này đề cập đến sử dụng các lá bài trong việc dự đoán số phận. Và những phương pháp được đề cập đến, chính là tiền thân của các phương pháp luận giải Tarot sau này. Và trong cuốn sách này, nghĩa ngược của lá bài cũng lần đầu tiên được đề cập đến.
Năm 1781, Antoine Court de Gébelin đưa ra trong tác phẩm "Monde Primitif" của mình rằng Tarot nguồn gốc từ các biểu tượng Ai Cập. Hiệp Hội Ai Cập học lúc bấy giờ có vẻ ủng hộ giả thiết này, thông qua việc đưa các biểu tượng Tarot như là các biểu tượng tương hình được mã hóa. Ý tưởng này được diễn ra trong thời kỳ mà Ai Cập Học đã có những bước nghiên cứu ấn tượng và gây được nhiều tiếng vang về mặt ký tượng học. Mặc khác, đây cũng là thời kỳ các chiến dịch ủng hộ  Ai Cập được triển khai mạnh mẽ. Nó được củng cố qua hàng loạt các nhà huyền học nổi tiếng đương thời như Etteilla, Papus, Éliphas Lévi hay về sau như Aleister Crowley. 
Sự kiện này được nhắc đến trong các tác phẩm kinh điển của Etteilla, trong đó ông cố gắng phục hồi các nguyên tắc thực hành trong Ai Cập cổ. Các tác phẩm của ông được tin tưởng đến mức bài Tarot trở nên một công cụ chính thức để thực hành bói toán và các ý tưởng của ông đựơc phát triển bởi các nhà huyền học sau này và kéo dài hằng thế kỷ đến nay. Trong cuốn sách “Manière de se récréer avec le jeu de cartes nommées Tarots” của ông, năm 1785 là cuốn sách khởi nguồn cho nền tảng của việc sử dụng nghĩa ngược về sau. Và ý nghĩa ngược cũng lần đầu tiên được ông xây dựng hoàn chỉnh cho Tarot.

Trong dòng thời gian phát triển, phương pháp sử dụng nghĩa ngược ít khi được các nhà huyền học đề cập một cách chi tiết. Đôi khi, chỉ đơn thuần là nêu ra ý nghĩa đối lập với ý nghĩa xuôi của lá bài, đôi khi phức tạp hơn. Và nghĩa ngược của lá bài Tarot dù không được các nhà huyền học đương thời sử dụng nhưng vẫn được sử dụng về sau. Nghĩa ngược được đề cập đến trong tác phẩm “The Tarot, 1888” của S. L. MacGregor Mathers. Và được kế thừa bởi Arthur Edward Waite, và trong cuốn sách “The Pictorial Key to the Tarot”, nghĩa ngược song hành cùng nghĩa xuôi. Song, trong các tác phẩm này không trực tiếp đề cập đến việc nghĩa ngược được xây dựng lên như thế nào. Những lời chỉ dẫn đầy ẩn ý vẫn như màn sương mù che phủ, đợi người sau giải mê.



II. Nguyên Lý Nghĩa Ngược:

Ở phần này, chúng ta không đề cập đến cách thức tạo bài ngược vì nó được đề cập ở phần cắt bài và chia bài. Tuy nhiên, chúng ta sẽ quan tâm đến thông điệp mà lá bài ngược sẽ gửi đến cho chúng ta. Trong cách trường phái không sử dụng hệ thống nghĩa ngược, thì ý nghĩa tiêu cực luôn bao hàm bên trong lá bài. Hãy thử với bộ Thoth Tarot của Crowley, trong lá The Empress – “Tình yêu. Vẻ đẹp. Sự hạnh phúc. Sự thỏa mãn. Sự thành công. Đạt được kết quả/Sự màu mỡ/Khả năng sinh sản. Có số phận tốt đẹp. Sự khoan dung. Sự duyên dáng. Sự lịch thiệp. Ý xấu: Sự phung phí (tiền bạc), không tập trung (tư tưởng, sự chú ý…), sự phóng đãng. Sự trụy lạc, cám dỗ. Sự lười nhác, vô ích. Thích hưởng thụ những khoái cảm về xác thịt,vật chất.” Ý nghĩa tích cực trộn lẫn với ý nghĩa tiêu cực, đòi hỏi người sử dụng phải có kinh nghiệm nghiên cứu lẫn thực hành để có thể luận giải chính xác, trường hợp nào là tốt và xấu. Việc tách đôi nghĩa xuôi và nghĩa ngược giống tách đôi hai mặt của một vấn đề, chia ra các cặp tốt – xấu, ánh sáng –bóng tối, thiện –ác, chủ động –thụ động,…, giúp người đọc bài tránh tình trạng hỗn loạn không thể phân minh. 

Tarot không đơn thuần chỉ là những lá bài dành cho bói toán; mà nó là một cuốn sách của tri thức và sự hiểu biết. Cuốn sách của 78 giấc mơ đời người. Chủ thể hướng đến của Tarot là con người, vậy nên nó cũng hướng đến phần sáng và phần tối bên trong con người. Có con người nào bước đến ánh sáng mà không có chiếc bóng theo cùng đâu? Tarot là cuốn sách mà chúng ta có thể tìm thấy bên trong những thông tin và chỉ dẫn, nhưng chọn lựa lại là chính chúng ta. Mỗi lựa chọn đều tạo nên số phận của chúng ta. Có thể sẽ là hạnh phúc, nhưng cũng có thể là đau khổ. Nhưng lựa chọn sai lầm, lại khiến bản ngã chúng ta trỗi dậy. Từ phần tối bên trong, đố kỵ; tham lam; hèn nhát; lười biếng và u mê nắm tay nhau nhảy múa, chiếm lấy con người chúng ta. Đừng hoài chờ ngày phán xét cuối cùng; vì nó đến mỗi ngày. Và mỗi lần lựa chọn, mỗi lần đối mặt với bóng tối bên trong là một lần oằn mình đớn đau về thân tâm con người. Nhưng tri thức và sự hiểu biết, chính là ngọn đèn trong tay con người trong chuyến du hành vào miền bí ẩn. Và để tìm thấy ánh sáng bên trong, chúng ta phải bước qua bóng tối dày đặc của đêm trước. 

Và như thế, khi những lá bài ngược xuất hiện; giống như là một điềm báo cho sự trỗi dậy của bóng tối bên trong con người. Nó là sự thiếu tin tưởng, hay đôi lúc là định kiến. Nó là sự dang dở, hay là sự vô vọng. Và có thể là dấu hiệu của sự sợ hãi, bất an trong đời sống. Có nhẽ, vì vậy đại đa số thường không thích những lá bài ngược, vì sự tiêu cực trong suy nghĩ. Nhưng dù thích hay không, vấn đề của con người vẫn ở đó, những lá bài chỉ cho chúng ta thông tin. Cuối cùng, chúng ta sẽ phải chiến đấu với bản thân, hoặc đầu hàng số phận.

Chỉ khi, chúng ta trải qua bóng tối, mới có thể tìm thấy được ánh sáng bên trong.

Và khi thực hành Tarot, chúng ta có thể giúp bản thân và người khác chú ý đến những mặt tối bên trong; khía cạnh khác của vấn đề. Hay là những đam mê còn đang ngủ vùi; hoặc là sự sẵn sàng cho việc đột phá. Và quan trọng hơn cả, chính là giúp chúng ta tìm được sự cân bằng trong tinh thần thông qua những lá bài và sự chia sẻ. Những hạt mầm ánh sáng được gieo sẽ đợi đến ngày giông tố để nở hoa rực rỡ trong tăm tối.

III. Phương Pháp Luận Giải Nghĩa Ngược:

1. Phương Pháp Truyền Thống:
Hầu hết các sách hướng dẫn đều dựa trên các lý thuyết lớn về Tarot của Mather, Waite, Etteilla, Crowley, Case… Nên việc dựa vào ý nghĩa truyền thống của lá bài là cần thiết để luận giải với lá bài ngược. Thí dụ, với lá The Fool có ý nghĩa chung về sự khởi đầu; thơ ngây nhưng theo các trường phái thì lại có sự khác nhau. Thí dụ như theo Waite, nó là sự điên rồ, hành động bất cẩn và nghĩa ngược của nó là sự bất cẩn, vắng mặt, sự sắp xếp tùy tiện. Sự thờ ơ lãnh đạm, thói kiêu căng. Theo Mather strong The Tarot, nghĩa xuôi là sự ngốc nghếch; trả giá, thiếu quyết đoán, và nghĩa ngược là sự bất ổn; phiền phức phát sinh phía sau.
Qua hai thí dụ trên, nghĩa ngược truyền thống đôi khi không được thể hiện quá nhiều trong hình ảnh của lá bài ở mặt xuôi. Và điều này có thể khiến người sử dụng rối trí. Và để sử dụng phương pháp dựa trên ý nghĩa truyền thống thì bạn cần nắm vững ý nghĩa trong sách đi kèm theo bộ bài. Và phương pháp sử dụng ý nghĩa truyền thống sẽ là bước khởi đầu để bạn có thể nắm bắt được các phương pháp tiếp theo.
Ở hướng truyền thống, chúng ta sẽ có vài cách ứng dụng như sau:


1.1. Nghĩa ngược đối lập với nghĩa xuôi:

Đây là một trong số những cách ứng dụng đơn giản, và dễ hiểu dành cho người mới sử dụng. Ở đây, nghĩa ngược mang tính chất đối lập với nghĩa xuôi. 

Thí dụ, với lá The Star chúng ta có nghĩa xuôi theo Waite là : tổn thất; bị đánh cắp, thiếu thốn, từ bỏ; một cách giải nghĩa khác là hi vọng, sự hứa hẹn, viễn cảnh rực rỡ. Nhưng nghĩa ngược lại là sự kiêu căng, ngạo mạn, bất lực. Khi phân tích sự đối lập giữa nghĩa xuôi và nghĩa ngược. Lá bài khi xuất hiện ở vị trí xuôi ám chỉ đến sự tổn thất mất mát song vẫn kèm theo đó những hi vọng giúp người được xem bài có thể vượt qua khó khăn, thêm sức chịu đựng. Nhưng khi ở vị trí ngược, thì chính sự kiêu căng ngạo mạn đã khiến người mắc kẹt trong khó khăn bỏ qua hi vọng thoát, để rồi chỉ còn lại sự bất lực.

Tương tự, chúng ta có thể đọc qua ý nghĩa lá này theo Crowley để có cái nhìn toàn cục, The Star – hy vọng. Sự giúp đỡ bất ngờ. Tầm nhìn trở nên rõ ràng. Sự thấu hiểu tâm linh/tâm hồn. Ý xấu: Đánh giá sai. Sự mơ mộng. Sự thất vọng.

1.2. Nghĩa Ngược Phủ Định Nghĩa Xuôi:

Ở cách thức này, nghĩa ngược của lá bài sẽ phủ định ý nghĩa xuôi. Thí dụ ở lá The Last Judgment, theo Waite nghĩa xuôi của nó là: Sự thay đổi quan điểm. Sự đổi mới, tái sinh. Nhưng ở nghĩa ngược thì lại mang tính chất phủ định là sự nhu nhược hèn nhát, sự tùy tiện. Ở đây, chúng ta có thể thấy ở nghĩa xuôi mang theo tính chất của sự thức tỉnh, tái sinh khi vượt qua thử thách. Thì nghĩa ngược lại ám chỉ đến việc chưa sẵn sàng hành động trước thử thách.

Trong các bộ bài không sử dụng nghĩa ngược một cách rõ ràng, thì lại kết hợp với việc đính kèm ý nghĩa xấu vào. Thí dụ, ở lá ba gậy trong bộ Thoth của Crowley, chúng ta có thể thấy: Đức hạnh – Tạo lập sức mạnh. Thành công sau những nỗ lực đấu tranh lớn. Kiêu hãnh và ngạo mạn. Nhận ra cơ may, niềm hy vọng. Sự thanh cao, cao quý. Ý xấu: Tự cao tự đại. Và ở nghĩa tiêu cực này, sự tự cao tự đại có thể khiến cho tất cả thành quả được xây dựng bị hủy hoại. Và khi chúng ta chỉ sử dụng bài xuôi, ý nghĩa tiêu cực đi kèm theo lá bài có thể là lời khuyên hay hướng dẫn giúp chúng ta tránh những khó khăn có thể gặp.

2. Phương Pháp Năng Lượng:

Thuyết năng lượng quan niệm trong vạn vật đều có tiềm tàng một nguồn năng lượng. Và cỗ Tarot được xem như ở mức năng lượng 0. Vì thế, nó có thể dễ dàng tiếp nhận nguồn năng lượng tinh thần của người xem và phản ánh thông qua những lá bài được rút ra. Ở đây, chúng ta sẽ liên kết các nhóm bài với các nguồn năng lượng trong đời sống và bên trong con người. 


Đầu tiên, các lá ẩn chính đại diện cho nguồn năng lượng tinh thần, mang tính chất định hướng. Tùy thuộc vào từng lá bài mà nguồn năng lượng được thể hiện khác nhau. Thí dụ như lá Tower thể hiện nguồn năng lượng mãnh liệt, dữ dội song lá Moon lại thể hiện nguồn năng lượng chậm rãi, nhưng bền bỉ. Sau đó, trong bộ ẩn phụ thì mỗi bộ lại đại diện cho một nguyên tố, một nguồn năng lượng trong cuộc sống và chúng là những nguồn năng lượng không hướng. Bộ gậy đại diện cho lửa, nguồn năng lượng nguyên thủy của sự sáng tạo, mang tính chất bùng nổ nhưng không bền bỉ, và nó thường đại diện cho những ý tưởng; tư tưởng hay sự xung đột trong cuộc sống.

Bộ Cúp đại diện cho nước, nguồn năng lượng mang tính chất nuôi dưỡng, thuộc về cảm xúc hướng nội, tốc độ chậm rãi nhưng dai dẳng. Nó thường thể hiện trong cuộc sống qua tình cảm, yêu thương, cảm xúc, sự cảm thông. Bộ Gươm đại diện cho khí, nguồn năng lượng đại diện cho sự phá hủy những cái cũ để tạo dựng cái mới, trong cuộc sống thường thể hiện qua suy nghĩ, thông tin, giao tiếp, ngôn ngữ, lời nói. Bộ Tiền đại diện cho đất, nguồn năng lượng định hình kết cấu nên vật chất, thường đại diện cho cơ thể, tiền bạc, tài chính, sự chiếm hữu trong cuộc sống. 

Và khi các lá bài ngược xuất hiện, thì thường là sự báo hiệu cho nguồn năng lượng bị khóa, sự tăng giảm, hay sự mất kiểm soát. Nhưng các lá chính ngược thường ám chỉ đến các rắc rối thực tại ảnh hưởng đến tinh thần. Các lá gậy ngược ám chỉ để sự xung đột, thiếu sáng tạo cũng như không sẵn sàng dấn thân. Các lá cúp ngược thường chỉ những cảm xúc nguyên thủy, những cảm xúc tiêu cực, hay thiếu sự kết nối và cảm thông. Các lá gươm ngược lại thể hiện những phiền não, rắc rối trong thông tin giao tiếp. Và sau cùng, các lá tiền ngược thường thể hiện khó khăn trong tiền bạc, sự ảnh hưởng lên cơ thể, hay việc chiếm hữu quá mức.

Ở phương pháp này, chúng ta có một vài cách ứng dụng như sau:

2.1. Năng Lượng Bị Khóa:

Phương pháp ứng dụng này được đề cập đến đến trong cuốn “The Complete Book of Tarot Reversals” của Mary K.Greer. Và theo đó, khi lá bài ngược xuất hiện thì nguồn năng lượng của lá bài xuôi có thể bị khóa hay bị chậm lại vì các lý do khác nhau. Việc bị khóa này có thể biểu qua việc bị cản trở hạn chế do yếu tố bên ngoài, hay sự chần chừ, thiếu quyết đoán do yếu tố bên trong là nỗi sợ hãi thay đổi, hay ngại bước ra khỏi vùng an toàn. Thí dụ như lá 8 gậy thể hiện sự dứt khoát nhanh lẹ ở nghĩa xuôi. Nhưng ở nghĩa ngược lại thể hiện chướng ngại, sự chần chừ, bị cản trở hay rắc rối giữa chừng. Hay như ở lá 6 gậy ngược, thì việc tự mãn kiêu ngạo sẽ ảnh hưởng đến thành công, thậm chí tự tạo thêm những kẻ thù khác.

2.2. Năng lượng của lá bài tăng giảm:

Ở phương pháp này, năng lượng của các lá bài sẽ chịu sự tác động của các lá bài xung quanh. Thí dụ như ở lá 10 gươm, ở vị trí ngược nhưng đi cùng với các lá bài tích cực như The Lover, The Sun, hay The World thì nó diễn tả về việc những đau khổ đang dần được chữa lành bởi những nguồn năng lượng bên trong lẫn ngoài, giai đoạn khó khăn sắp vượt qua và các vết thương được hàn gắn. Tuy nhiên, ở vị trí ngược của 10 gươm nhưng lại đi kèm với lá The Moon, Death, The Hanged Man thì nguồn năng lượng tiêu cực vẫn sẽ tăng lên và nỗi đau sẽ còn dai dẳng, kéo dài. 


2.3. Năng Lượng Mất Cân Bằng:

Ở phương pháp này, khi lá bài xuôi xuất hiện thì ám chỉ đến nguồn năng lượng đang được cân bằng. Tuy nhiên, lá bài ngược lại ám chỉ đến việc mất cân bằng, không thể kiểm soát được. Thí dụ như ở lá Temperance, ở lá xuôi diễn tả sự cân bằng, dung hòa các vấn đề tinh thần và vật chất cùng nhau. Nhưng ở lá ngược lại ám chỉ đến việc mất cân bằng, không thể kiểm soát được các nguồn năng lượng dẫn đến việc dung hòa không thành công. Hay như ở Justice, lá xuôi là công lý, phân minh, nguồn năng được điều tiết một cách rõ ràng thì lá ngược lại là sự bất công, thiếu phân minh do nguồn năng lượng chịu sự tác động từ bên ngoài khiến các vấn đề trở nên rối bời.

3. Phương Pháp Hành Trình Chàng Khờ:

Ở phương pháp hành trình chàng khờ, mỗi lá bài đều là một bài học, mỗi quá trình phải trải qua của sự trưởng thành. Và những lá bài xuôi đại diện cho sự tiếp nhận bài học đồng thời có thể thực hành trong cuộc sống. Nhưng những lá ngược lại ám chỉ đến những bài học còn đang dang dở, gặp sự cản trở từ bên ngoài, hay chướng ngại bên trong.

Với bộ ẩn chính, thì từ lá số I đến lá số X là con đường học tập những bài học tinh thần và ý nghĩa của cuộc sống dành cho chàng khờ. Từ lá XI đến lá XXI là quá trình vận dụng những bài học để biến đổi tinh thần, thay đổi bản thân hướng đến sự hoàn thiên. Với các lá số, thì mỗi lá là những trải nghiệm trong cuộc sống để chàng khờ có thể lĩnh hội những bài học của bản thân, đồng thời giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Với các lá mặt, khi chàng khờ học được hai bài học đầu tiên từ Pháp Sư và Nữ Tu thì sẽ bắt đầu phát triển thành Tiểu Đồng, hai bài học tiếp nối từ Hoàng Hậu và Hoàng Đế thì bắt đầu phát triển thành Kị Sĩ, hai bài học nữa sẽ trở Hậu và hai bài học nữa sẽ trở thành Vua. Sự trưởng thành trong tính cách sẽ tùy thuộc vào việc trải nghiệm và hiểu ra những bài học của người thầy đời sống.

Và như thế, với phương pháp này chúng ta có vài cách ứng dụng như sau:


3.1. Bài Học Chưa Hoàn Thành:

Phương pháp này được đề xuất bởi  Paul Fenton-Smith, trong cuốn “Mastering the Tarot”. Nguyên lý của phương thức này chính là chàng khờ - tượng trưng cho chúng ta vẫn chưa hoàn thành ở lá phía trước, có thể là vẫn chưa học xong bài học cần học hay là thấu hiểu triệt để. Nên lá ngược xuất hiện như một lời nhắc nhở cần hoàn thiện trước khi bước qua những bước mới.

Trong bộ ẩn chính, khi lá Magician ngược sẽ quay lại với lá The Fool, và lá The Fool ngược sẽ quay lại với lá The World. Trong bộ ẩn phụ, các lá số thì lá Ace ngược quay lại lá số mười. Riêng các lá mặt, chúng tôi đề xuất là Vua sẽ quay về Hậu, Hậu quay về Kị Sĩ, và Kị Sĩ quay về Tiểu Đồng. Cuối cùng, Tiểu Đồng ngược quay trở lại với Chàng Khờ. Khác một phần so với Paul Fenton-Smith, khi ông lại đề xuất King quay lại Knight và Queen quay lại với Page.

Thí dụ như lá Death ngược, thì quay lại sẽ lá The Hanged Man xuôi. Lá bài ám chỉ về sự chấp nhận; hi sinh, cứu chuộc. Hàm ý là chúng ta cần hiểu được hết ý nghĩa của sự hi sinh vì người khác trước khi chuyển đổi hoặc kết thúc. Hay ở lá Queen Of Wands ngược quay trở lại lá Knight Of Wands thì bài học chúng ta cần hoàn thành là việc kiên trì để phát triển, và sự ổn định trong cảm xúc, không còn chịu sự chi phối của những cơn lũ cảm xúc nữa, thoát ra khỏi sự bất đồng non trẻ để trở nên tĩnh tại hơn.

Và khi chúng ta hoàn thành bài học của mình với các lá Tarot, chính là lúc chúng ta sẽ trở nên hoàn thiện và sẵn sàng cho những cuộc hành trình mới.

3.2. Tấm Gương:

Ở phương pháp này, các lá bài Tarot được xem như những tấm gương để soi chiếu bản thân. Ở đây, chúng ta sẽ nhìn thấy nội tâm bên trong, thấy được con người của mình qua sự phản chiếu. Ở phương pháp này, có sự liên quan mật thiết đến lý thuyết tâm lý của Jung về vô thức chung. Nghĩa là trong các lá bài sẽ hàm chứa những cổ mẫu; hình ảnh của loài người cổ sơ như cha mẹ, trai gái, pháp sư, phù thủy, tiên tri, người thông thái, anh hùng, kẻ ngốc… Và mỗi cổ mẫu là một sự gợi mở để giải phóng những nguồn năng lượng tinh thần bị dồn nén bên trong của chúng ta.

Thí dụ, như hình ảnh chàng khờ thể hiện hình ảnh khởi đầu của một anh hùng đang được mời gọi vào chuyến hành trình khám phá những miền bí ẩn. Nhưng ngược lại, nó lại ám chỉ đến những kẻ điên rồ làm những chuyện phóng túng không hề nghĩ đến hậu quả. Hay như lá Ác Quỷ ám chỉ đến mặt tối, cái bóng của chúng ta và lời nhắc chính là hãy đối mặt với nó. Song ở lá bài ngược, là bản thân chúng ta đang bị nhấn chìm trong những cám dỗ, hay chịu sự chi phối vô thức từ mặt tối của bản thân. Với những động lực mang tính hủy diệt để đạt đến tham vọng. 
Hoặc là như ở lá 5 gậy, nó thể hiện sự đấu tranh. Nhưng nếu ở chiều xuôi thì là cuộc đấu tranh với các yếu tố bên ngoài, song ở chiều ngược là cuộc đấu tranh với chính bản thân, với những chướng ngại nội tâm bên trong.


IV. Sử Dụng Lá Ngược:
( Phần này nằm trong cuốn Tarot Cấm Thư sắp xuất bản <3 )

Đọc tiếp »

Tarot Cấm Thư- Chương VIIII: Bí Ẩn Và Nguyên Lý Của Xào Bài, Xếp Bài, Cắt Bài, Chia Bài, Rút Bài

item-thumbnail



Có một phần quan trọng về xào, xếp, cắt, chia, rút trong Tarot mà chúng ta chỉ được biết một cách sơ lược, và chỉ có những hướng dẫn ngắn. Và dễ thường, người ta cũng bỏ qua trong khi hướng dẫn cho những người mới. Trong chương này, chúng tôi xin chỉ ra những bí ẩn và nguyên lý trong phần này.

--------- 





Xếp Bài: 

Về mặt lý thuyết, trước khi bắt đầu một buổi xem bài Tarot, chúng ta cần phải sắp xếp các lá bài lại theo một thứ tự nhất định. Có nhiều nguyên do, mà đầu tiên là cấu trúc bộ bài từ trạng thái “ hỗn loạn” về với trạng thái “ trật tự” ban đầu, để hiểu đơn giản hơn hãy tưởng tượng sau mỗi lần xem bài cho bản thân, hay cho người khác thì trạng thái của bộ bài đạt được ở con số 10, và việc sắp xếp lại sẽ giúp cho bộ bài trở về lại trạng thái của con số 1, trạng thái khỏi đầu; tích cực; tràn đầy năng lượng. Ở nguyên do tiếp theo, việc sắp xếp lại bộ bài giống như một hình thức thanh tẩy; mà theo thuyết năng lượng là bộ bài cần được làm rỗng trước khi bắt đầu một lần xem cho người tiếp theo. Trên cơ sở lý thuyết, thì khi xem bài thì bộ bài giống như một đỉnh trong tam giác gồm người đọc bài, người xem bài, bộ bài. Mà ở đây, bộ bài nhận nguồn năng lượng từ người xem để tương tác với người đọc. Vì nguyên do này nên bộ bài sẽ mang theo dấu ấn của thân phận người xem bài, và để tránh việc ảnh hưởng đến người xem trong lần tiếp theo thì bộ bài cần được sắp xếp lại để trở về với trạng thái cân bằng. 

Tuy nhiên, việc sắp xếp các quân bài trở về đúng vị trí không phải là điều đơn giản. Chúng ta có thể sắp xếp tùy ý theo cách thức riêng của mỗi cá nhân, hay theo thứ tự mà nhà sản xuất đóng gói bộ bài. Song, để việc sắp xếp đạt được mục đích như đã đề cập ở trên, thì chúng ta nên tham khảo những chỉ dẫn từ các hệ thống thứ tự của các nhà huyền học. Cấu trúc này mang ý nghĩa biểu tượng rất phức tạp, đó có thể là trật tự cấu trúc vũ trụ, là hành trình thụ pháp- hành pháp của con người, hay là con đường để chiêm nghiệm trước siêu nhiên, hoặc là thứ tự để đào sâu tìm hiểu về chính bản thể của con người trong miền tâm thức sâu thẳm. 

Các nhà huyền học lớn sắp xếp hệ thống 78 lá bài Tarot theo những thứ tự khác nhau mà cụ thể là Mathers, Crowley, Case, Waite và Etteilla( thứ tự của hai ông tương ứng với nhau). 

Đầu tiên, hãy nói về Waite và Etteila, thì quân bài được đánh số I(The Magician) tương ứng với số 1, quân bài số 0( The Fool) tương ứng với số 21, quân bài số XXI( The World) tương ứng với số 22. Một điểm cần lưu tâm là với Waite thì vị trí số 8 ứng với lá VIII, là quân bài Strength(Fortitude), còn vị trí số 11 ứng với lá XI, là quân bài Justice. Thứ tự cụ thể chúng ta có thể tham chiếu đến cuốn The Pictorial Key to the Tarot của Waite. Tiếp theo ở bộ ẩn phụ, với Waite thì số 23 ứng với King Of Wands, cho tới số 26 ứng với Page Of Wands, 27 ứng với 10 gậy cho đến 36 ứng với 1 gậy, sau đó 37 ứng với King Of Cups, rồi 50 ứng với một 1 cúp, và 51 ứng với King Of Swords, 64 ứng với một gươm, 65 ứng với King Of Pentacles cho đến 78 ứng với một tiền. 


Tiếp đó, ở bộ ẩn chính thì Crowley và Case có sự tương đồng nhất định trong thứ tự hệ thống: lá The Fool, mang số 0 ứng với số 1 khởi đầu. Và kết thúc ở số 22 ứng với lá XXI( The World/The Universe). Một điểm khác biệt là ở Crowley lá VIII là Adjustment(Justice) và XI là Lust( Strength). Song trong bộ ẩn phụ thì sự sắp xếp của Crowley lại khác biệt với Case. Theo Crowley, Knight Of Wands ứng với 23 tiếp đến Queen Of Wands là 24, …, Princess Of Wands là 26, sau đó là Knigh Of Cups là 27, theo thứ tự đó tới Princess Of Diss là 38, sau đó là một gậy ứng với 39…10 gậy là 48, kế tiếp tới bộ cúp, bộ gươm, và kết thúc ở lá 10 tiền với vị trí 78. 

Còn với Case thì ở vị trí 23 là một gậy, cho đến 33 là King Of Wands,…, 35 là Knight Of Wands, kết bộ gậy ở lá Page Of Wands ở 36. Tiếp đó là bộ cúp, bộ kiếm và kết thúc ở bộ tiền; với lá Page Of Pentacles kết thúc ở vị trí 78. 

Với Mathers, thì thứ tự của ông được đề cập trong cuốn Book T, khởi đầu ở số 1 là lá một gậy, tiếp là một cúp, một gươm, một tiền. Tiếp đến ở số 5 là Knight Of Wands,…, số 7 là King Of Wands, số 8 là Page(Knave) Of Wands, tương tự cho đến Page Of Pentacles. Tiếp đó là các lá số được sắp xếp theo thứ tự chiêm tinh đã được đề cập ở trong chương trước. Thí dụ như 5,6,7 gậy ở vị trí 21,22,23 ứng với ba decan của cung sư tử, sau đó là 8,9,10 tiền ứng với 24,25,26 ứng với ba decan của cung xử nữ.Tiếp tục cho đến hết vòng hoàng đạo ở cung cự giải với 2,3,4 cúp tương ứng với 54,55,56. Tiếp theo, lá The Foolish Man tương ứng ở vị trí 57,…, kết thúc ở lá The Universe ở vị trí 78.




Có một điểm cần lưu ý, là ở một số bộ đặc biệt mà hệ thống bộ ẩn phụ được ghép khác biệt với hệ thống của hội Bình Minh Ánh Kim, tức là Gậy ứng với khí, Tiền ứng với lửa, cúp với nước, gươm ứng với đất như của Thierens thì cần tham khảo hệ thống thứ tự được ghi trong tài liệu đi kèm của bộ bài hoặc cuốn General Book of the Tarot của ông. 



Xào Bài: 

Sau khi đã sắp xếp lại cỗ bài mà bản thân chúng ta sẽ sử dụng, thì bước tiếp đến chính là xào bài. 


Trong các tài liệu hiện đại, chỉ giới thiệu cho chúng ta cách xào bài, rất nhiều phương pháp. Song, hiếm người lý giải nguyên do tại vì sao phải xào bài, rồi ai sẽ là người xào bài, và xào bao nhiêu lần? 


Trước nhất, hãy nói về nguyên cớ của việc xào bài. Ở đây có hai thuyết đáng lưu tâm gồm thuyết giao ước và thuyết năng lượng. Với thuyết thứ nhất, tức là lý thuyết về giao ước, thì thuyết này quan niệm cỗ bài Tarot là chìa khóa để giao tiếp, kết nối với các vị thần/ đấng linh thiêng/ các thực thể siêu nhiên, thì khi chúng ta xào bài nghĩa là chúng ta đang quay vòng quay của số phận, đang gửi những thông điệp, mong muốn của mình đến các vị thánh thần. Và khi đó, thông điệp của chúng ta sẽ được trả lời bằng những lá bài trong cỗ Tarot. 


Còn ở thuyết thứ hai, tức là thuyết năng lượng trong các quan điểm hiện đại. Thì khi chúng ta bắt đầu xào bài, thì chúng ta kết nối nguồn năng lượng bản thân với cỗ bài, và sự xáo trộn lẫn lộn được tạo ra, những lá bài ngẫu nhiên khi rút ra sẽ kết nối với chúng ta thì sẽ giúp chúng ta nhìn rõ các vấn đề thực tại, giúp chúng ta nhìn rõ như đang đứng giữa nhiều tấm gương soi. Bên cạnh đó, từ những sự kiện thực tại, người đọc bài có thể phân tích, suy luận, để dựa trên đó đưa ra những dự đoán các trường hợp và sự kiện có thể xảy ra trong tương lai. 

Ở đây sẽ tiếp tục nảy sinh một vấn đề, vậy ai sẽ là người xào bài? Và sẽ là bao nhiêu lần.

Chúng ta sẽ có một tam giác bao gồm: người đọc bài( reader), cỗ bài Tarot, người xem bài( querent). Thì dựa vào niềm tin với lý thuyết 1 hay 2 nêu ở trên, thì người đọc bài sẽ phối hợp với người xem bài. Đi theo với thuyết giao ước, thì việc xào sẽ hoàn toàn thuộc về người đọc bài, vì việc những lá bài xuất hiện mang tính chất thuộc về số phận, câu hỏi được trả lời bởi các đấng linh thiêng. Người xem bài chỉ cần nêu ra vấn đề của bản thân. 

Tiếp đó, với thuyết năng lượng, thì cỗ Tarot có liên kết mật thiết với người xem bài thì việc xào bài có thể được thực hiện bởi người xem bài, hoặc người đọc bài vẫn sẽ là người xào bài nhưng sẽ có các phương pháp tạo sự kết nối với người xem, như việc tập trung và đặt tay lên bài, hay cắt bài ra làm các tụ khác nhau. 


Và trong phần xào bài này, tạm kết lại cùng với việc bàn luận về một vấn đề chung là sẽ xào bao nhiêu cái. Thì đây là vấn đề mà chúng ta sẽ áp dụng với tính chất cá nhân nhiều. Có người sẽ xào cho đến khi cảm thấy bộ bài đủ nặng, có người xào đủ ba lần, có người thì xào theo cách nam bảy cái; nữ chín cái. Tuy nhiên, trên lý thuyết của Tarot thì chúng ta chỉ xào ba cái cho mỗi lượt trải bài. Chỉ ba lần, không hơn không kém, được đề cập trong phương pháp Celtic cổ của Waite. Và trong khi xào bài, nếu có một lá bài rớt ra thì hãy lấy nó bỏ vào lại bộ bài, nhưng nếu lá bài ấy rớt ra liên tục ba lần, thì chúng ta nên ngừng việc xem bài lại. Lý giải cho vấn đề này, thì chúng ta có hai lý giải: đầu tiên, là câu hỏi yêu cầu không được các đấng linh thiêng đáp lời, tiếp theo, thì sự kiện rớt bài báo hiệu mức độ liên kết năng lượng thấp không phù hợp cho việc đọc Tarot trong thời điểm này. 



Cắt Bài: 

Sau khi đã hoàn thành hai phần là xếp bài và xào bài, thì chúng ta tiếp tục với phần cắt bài. Trong mục này, chúng tôi sẽ bàn đến hai vấn đề trọng tâm là mục đích của việc cắt bài, và sử dụng tay nào? 


Cắt bài là cách thức mà chúng ta sẽ chia bộ bài 78 lá ra thành hai tụ hoặc ba tụ hay thậm chí lá bảy tụ khác nhau trên bàn xem bài. Trong thực tế, thường những người đọc bài chỉ chia bài thành ba hoặc bốn tụ trên bàn, đôi khi có người còn bỏ qua giai đoạn này. Mà mục đích của việc cắt bài chính là để tạo các lá ngược. Như đã đề cập ở phần xếp bài, thì các lá bài khi được xếp lại sẽ trở về trạng thái gốc tức là lá bài xuôi. Để tạo lá ngược, thì trong khi cắt bài thành các tụ thì chúng ta sẽ đảo chiều một số lá, hoặc một số tụ trong toàn bộ để có được các lá ngược. Trong hướng dẫn về phương pháp biến dịch của Waite, dường như ông chỉ đề xuất đảo ngược các lá bài với số lượng ít hơn một nửa bộ bài. Trong cách hiểu của chúng tôi, việc này nhằm đảm bảo số lượng lá ngược hay nghĩa ngược (tiêu cực nói chung) không vượt quá một giới hạn nghĩa chính, tức là như chúng tôi hiểu, nghĩa ngược chỉ là một phần phụ của lá bài, và nghĩa thuận là nghĩa chính thức của lá bài. Điều này có vẻ đơn giản nhưng có một số thay đổi quan trọng. Nếu nghĩa ngược chỉ là phần phụ, đồng nghĩa với việc khi rút được lá ngược, chúng ta phải diễn dịch nghĩa thuận (đồng thời là nghĩa chính thức của lá bài) trước, rồi mới diễn dịch nghĩa ngược từ nghĩa thuận đó. Nói cách khác, bối cảnh của nghĩa ngược phụ thuộc hoàn toàn vào bối cảnh của nghĩa thuận và không có chiều ngược lại. 

Cũng trong phần hướng dẫn của Waite trong cuốn The Pictoral Key To Tarot, thì người cắt bài sẽ là người xem bài chứ không phải người đọc bài, và bằng tay trái. Trước hết, chúng tôi tin rằng việc để người xem bài cắt bài là một bước quan trọng nhằm tạo sự liên kết về mặt tinh thần trong buổi đọc bài. Mặt khác, nó sẽ khiến người xem có sự hòa nhập, thoải mái, để có thể chia sẻ những điều mà bản thân đang kiềm nén. 

Còn vấn đề tay trái. Dường như không có trải bài nào khác chỉ rõ điều này, hoặc giả là người ta cho phép tự do hơn. Chúng tôi đã duyệt qua hầu hết các trải bài ở cùng thời với ông, hầu hết chúng đều không nhắc gì đến tay trái hay phải. Tuy nhiên, vẫn cần nhận định là trong khá nhiều trường hợp sách huyền học lúc bấy giờ đều được viết với một chỉ dẫn hời hợt hoặc thần bí, mà trong đó mọi nghi thức và kiến thức quan trọng bị ẩn dấu một cách có hệ thống. Vì vậy, không có lý do gì để tin rằng, việc sử dụng tay trái không phải là một nghi thức có tính bắt buộc, và sau đây chúng tôi sẽ lướt qua một số liên hệ về vấn đề này. 

Trước hết hãy bắt đầu phân tích từ nghi lễ "Neophyte Ritual" dành cho Grade 0=0. Đáng chú ý là phần nghi lễ sau: "Hiero: Thou wilt kneel on both knees, give me your right hand, which I place on this sacred and sublime symbol (Places Candidate's right hand on the center of the triangle.) Place your left hand in mine, bow your head, repeat your full name at length and say after me (All rise)" và "As they pass the Hierophant, who is standing and holding the Banner of the East in his left hand, the Scepter in his right, they make the Neophyte Signs". 

Trong quan niệm Golden Dawn, tay phải mang tính lý trí (thuộc tính nam, tính mạnh, tính thần thánh), còn tay trái mang tính tình cảm (thuộc tính nữ, tính yếu, tính trần tục). Việc người xem được cắt và chạm đến bộ bài có lẽ nhằm đưa năng lượng và yêu cầu của người xem vào bộ bài. Còn người đọc, vốn là chủ thể kết nối với bộ bài, thì mới được dùng tay phải để sử dụng, vì đó là năng lực và quyền hạn của người được tin cậy, phải đưa ra lời khuyên một cách lý trí và quyết đoán.

Trong cuốn The Magical Tarot of the Golden Dawn của Chris và Pat Zalewski, tác giả dẫn ra bản viết tay của Mathers vào năm 1900 về "Seven branched candlestick" trong đó hướng dẫn một số nghi lễ dành cho trình độ Theoricus Adeptus Minor của hội Golden Dawn như sau "Nun: Arms bare and strong: on Right, a shield, Golden, and charge with a dove (the eagle on the card in the ordinary pack is a corruption): in the left hand, Three lillies, held like a scepter, and the Crux Ansata or Nile Key; hanging form the left wrist;the coloring bluish green.". 

Một cuốn thứ hai mà chúng tôi tìm được đó là bản thảo Flying Roll của tiến sĩ W.W. Westcott (thầy của Mathers, sáng lập viên của Golden Dawn) viết vào cuối thế kỷ 19 (trong khoảng 1880 đến 1900). Trong bản thảo này, người ta thấy một hướng dẫn nghi lễ ở chương 12 - Telesmatic Images & Adonai như sau "NUN. Arms bare, strong, extended as a cross. In the right hand are ears of corn, and in the left a golden Cup. Large dark spreading Wings.". 

Cả hai cuốn này cho thấy phân tích bên trên của chúng tôi là khá phù hợp. Rõ ràng trong Golden Dawn, vị trí và ảnh hưởng của hai tay hoàn toàn khác nhau. Ở tay phải là những hình thức của cái mạnh, đại diện cho lý trí, quyền lực, sự quyết đoán, tính nam (Khiên Vàng, Hạt Bắp *). Còn ở tay trái là những hình thức của cái yếu, đại diện cho tình cảm, sự tôn sùng, sự tuân theo, tính nữ (Biểu tượng nữ thần sông Nile, Cành Hoa Lyly, Cúp Vàng*). 

* Khiên là vật dụng chiến đấu của người nam, cành hoa lyly là đại diện cho sự trồng trọt của tính nữ. Hạt bắp một mặt đại diện cho sự sinh trưởng nhưng đồng thời đại diện cho người phối giống (như dương vật nói chung), còn cái Ly đại diện cho vật thụ hưởng (ly đựng nước hoặc hạt ngũ cốc) và dạng lõm của cái ly được xem như dạng của âm đạo phụ nữ, vì vậy đại diện cho tính nữ. Biểu tượng nữ thần vừa là sự sùng kính tuyệt đối (thuộc tính nữ), vừa đại diện cho tính nữ của nữ thần.

Một phần khác của bản thảo Flying Roll mà chúng tôi chú ý là ở chương 9 - Right & Left viết năm 1893. Phần này nói về cột Jachin&Boaz của đền thờ Solomon. Trích Kinh Thánh Chronicles II; 3-17: "And call the Name on the right hand (of him who enters) Jachin, and the Name of that on the left, Boaz."; dịch "Và gọi bên phải là Jachin và bên trái là Boaz". 

Jachin là cột trắng đại diện cho tính nam, Boaz là cột đại diện cho tính nữ. Và như chúng tôi đã nói đến trong kinh thánh Chronicles II, Westcott đã đưa ra quy tắc được áp dụng cho Golden Dawn như sau "Black Pillar = Severity = Left = North ; White Pillar = Mercy = Right = South". Vì vậy, từ tài liệu của Westcott càng chứng minh được Golden Dawn ngay từ ban đầu đã xác định tay trái dành cho tính nữ (tính yếu, tính tình cảm) và tay phải dành cho tính nam (tính mạnh, tính lý trí) chứ không phải chỉ xuất hiện từ thời kỳ Mathers trở đi.

Một số ý nghĩa khác cũng cần được nói đến. Theo truyền thống ma thuật, người thuộc White Magic-Ma Thuật Trắng* dùng tay phải cho nghi lễ chính và tay trái cho nghi lễ phụ (điển hình như những hội thuộc black magic như Ceremonial Magick, Qabalah, The Golden Dawn, Rosicrucian, các hội thuộc angelic magic...). Những hội này coi bản thân như sự mặc khải của thiên chúa xuống trần gian và thực hiện theo phán truyền của thiên chúa (dù không hoàn toàn như Rosicrucian vẫn thờ Bathomet, Golden Dawn có nhiều nghi lễ thuộc ngoại giáo Talisman). 

Còn người thuộc Black Magic-Ma Thuật Đen* thì ngược lại, dùng tay trái cho nghi lễ chính, và tay phải cho nghi lễ phụ (điển hình như các hội Satanism, Setian, Qliphothic, Paganism). Và dựa vào quy tắc đặt tay và cử chỉ, hoàn toàn có thể đoán được nghi lễ đó thuộc ma thuật trắng hay đen.

* Ma Thuật Trắng là thuật ngữ ám chỉ các nghi lễ của các phù thủy sử dụng ma thuật cho mục đích cao cả theo mặc khải của đấng tối cao (phải nói rõ là đó có thể không phải là thiên chúa của Thiên Chúa Giáo). Ma Thuật Đen là thuật ngữ ám chỉ các nghi lễ của các phù thủy sử dụng ma thuật cho mục đích đen tối nói chung, thường là phục vụ theo các giao dịch tiền bạc hoặc quyền lực mà không cần sự mặc khải của đấng tối cao.

Tay trái gắng liền với cái yếu và cái phụ ngay từ đầu thời kỳ trung cổ. Từ "left"- bên trái có gốc anglo-saxon từ "lyfy" trong cổ ngữ và có nghĩa là nhẹ. Trích từ The Free Dictionairy của từ "lyfy" như sau "Middle English, from Old English lyft-, weak, useless (in lyftdl, paralysis).". Một dẫn chứng khác là từ Sinister, có gốc từ tiếng Latin có nghĩa là dùng tay trái hay thuận tay trái, vốn là bàn tay của ma quỷ và các thế lực siêu nhiên, vẫn còn được dùng ngày nay với ý nghĩa là ma quái, điềm xấu, kém may mắn ... Trích từ The Free Dictionnairy của từ "sinister" như sau "Middle English sinistre, unfavorable, from Old French, from Latin sinister, on the left, unlucky, from Old English lyft-, weak, useless (in 'lyftdl', paralysis)." .

Chúng ta còn có thể bắt gặp điều này ở trường ca Homer Odyssey, khi mà dấu hiệu một con chim ưng bay về phía tay phải thì nó mang tin tốt lành, còn nếu bay về tay trái thì nó mang tin dữ. Ngoài ra ý tưởng của nó còn có trong tiếng pháp khi mà từ "droit"-tay phải tương đương với nghĩa quyền lực (avoir la droit = có quyền làm) hoặc đúng đắn. Còn bên trái tương đương với từ maladroit (biến âm từ mal-à-droit = không phải bên phải) có nghĩa là xấu xa, sai lầm. Hầu hết các ngôn ngữ châu Âu đều có chung khái niệm này, khác với châu Á khi mà bên trái được coi trọng hơn bên phải và được gán cho tính nam. 

Ngoài ra, còn khái niệm cổ về năng lượng và ma thuật cho rằng, tay phải được coi là nơi thu năng lượng, còn tay trái được coi là nơi tống năng lượng; hay một cách diễn đạt khác: tay phải là xây dựng, tay trái là phá hủy. Một dẫn chứng từ sách The Witches Bible (Kinh Thánh Ma Thuật) do Jan và Stewart Fararr xuất bản năm 2002 có mô tả về một nghi lễ của Gardenarian Wicca trong đó người phù thủy mở và đóng cánh cửa năng lượng từ tay phải và trái của mình. 





Chia Bài Và Rút Bài: 

Trong phần này, việc chia bài( đôi lúc gọi là xòe bài) trước khi rút bài thì chúng ta sẽ quan tâm đến hai vấn đề là nên úp lá bài xuống, hay lật ngược lá bài lên. Và ai sẽ là người rút bài. 

Thông thường, chúng ta vẫn thấy đại đa số những người đọc bài chia bài ra một cách thuần thục, mặt sau của lá bài đồng nhất hệt như một tấm màn che phủ số phận mà bản thân người xem không thế biết trước được. Sự bất ngờ luôn xuất hiện mỗi khi lá bài được lật ngửa. Trong quan niệm của trường phái tâm linh, thì việc úp lá bài xuống này mang tính chất ngẫu nhiên, không thể kiểm soát được những quân bài mà chúng ta sẽ rút. Ở quan niệm này, người đọc sẽ đóng vai trò chủ đạo, đọc những dấu hiệu của các sự kiện đã xảy ra, đang diễn ra, hoặc sẽ xuất hiện cho người xem bài nghe. Mặt khác, khi tiên đoán các sự kiện xảy ra trong tương lai thì việc này sẽ phụ một vài yếu tố hiện tại như sự chân thành của người xem. Bởi vì một khi bạn thiếu sự chân thành, niềm tin và thông tin đưa ra sai lệch thì việc liên kết sẽ khó thực hiện và ảnh hưởng đến việc đọc các dấu hiện trên các lá bài. Nếu bạn đến để đọc Tarot với định kiến, thì bạn vẫn ra về với định kiến. 


Một yếu tố tiếp theo trong quan điểm tâm linh, là việc đọc bài phụ thuộc một phần nào đó vào khả năng tâm linh của người đọc. Cụm từ “ khả năng tâm linh” để diễn tả định nghĩa rất khó, vì nó là khái niệm khá mơ hồ không thể cân đong đo đếm được. Hệt như nước thay đổi và biến ảo hình thái từ nước sang sương lại thành mây, hóa mưa rồi qua băng tuyết, nhưng bản chất vẫn là nước. Đôi lúc, chúng ta có thể xem những người có trực giác mạnh thường sẽ là người có khả năng tâm linh mạnh, hệt như lá Nữ Tu trong cỗ Tarot. Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng, đa số chúng ta đều sinh ra với ba phần thân, tâm, ý. Vì vậy, khả năng tâm linh tồn tại trong mỗi chúng ta. Giống như một kho tàng tiềm ẩn. Và chúng ta có thể thông qua nhiều phương pháp để rèn luyện khả năng này. 


Trong trường phái tâm lý, việc chia bài được diễn ra ngược lại. Người xem bài đóng vai trò chủ đạo, người đọc bài đóng vai trò lắng nghe. Các lá bài được lật ngửa lên. Và người xem Tarot chọn lựa những lá bài tương ứng với câu chuyện, hay đơn thuần là phù hợp với bản thân. Người đọc sẽ liên kết và kể cho người xem, câu chuyện của chính họ. Ở đây, thay vì úp các lá bài xuống, mang tính chất tiên đoán sự kiện, giải đoán, thì việc ngửa các lá bài tương tự với phương pháp trị liệu bằng nghệ thuật trong tâm lý học( Art Therapy). Những hình ảnh sẽ được người xem bài chọn lựa và sắp xếp thành câu chuyện của họ. Sự tương tác giữa người đọc và người xem sẽ giúp phá vỡ những rào cản bên trong, để những cảm xúc bị dồn nén có thể bộc phát. 


Ở đây, chúng ta thường nhận được câu hỏi, tại sao lại sử dụng Tarot, mà không dùng hình thức khác như âm nhạc, vẽ tranh? 


Thứ nhất, Tarot là ngôn ngữ của các biểu tượng, mà các biểu tượng trong Tarot tập hợp tạo thành các nguyên mẫu trong vô thức chung (theo Jung) của con người. Đó có thể là người cha, người mẹ, người thầy, anh hùng, ác quỷ, ẩn sĩ, pháp sư, thần chết… Từ những lá bài mang theo các nguyên mẫu này, chúng ta có thể tìm ra được nguyên nhân bên ngoài ảnh hưởng đến tâm lý người xem trong cuộc sống, phân tích và đưa ra hướng đi phù hợp, giúp người xem chấp nhận bản thân, sự thật. Đồng thời, dựa trên tính cách được thể hiện mà dự đoán các xu hướng hành động trong tương lai. 

Thứ hai, dựa trên những nguyên mẫu của các lá bài Tarot chúng ta có thể sắp xếp vào tạo thành một câu chuyện, một giấc mơ của người xem. Từ đó, tương tác với người xem, để tìm hiểu những tổn thương về mặt tâm lý trong thời thơ ấu, niên thiếu, hay hiện tại. Mỗi lá bài, là một mảnh ghép của giấc mơ. Và chính bản thân người xem sẽ nói ra những điều mà họ chưa bao giờ dám nói. Những đau khổ họ phải chịu, những kì vọng; trách nhiệm họ phải gánh lấy, những chọn lựa mà chưa bao giờ họ muốn chọn. 

Nhưng phải nói thêm rằng, người đọc bài Tarot ở vị trí một người tham vấn cũng cần có sự quyết đoán để giúp người xem chấp nhận khó khăn mà bản thân gặp phải để tìm cách vượt qua. Chứ không phải là xoa dịu người xem, ru ngủ người xem bằng những ảo vọng tương lai. 


Quay trở lại với vấn đề rút bài. Thì theo trường phái tâm linh, người đọc bài nên là người rút bài. Tuy nhiên, bản thân người đọc cần phải ở trạng thái cân bằng không bị ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài lẫn bên trong. Các yếu tố bên ngoài như ánh sáng, tiếng động, con người. Các yếu tố bên trong như cảm xúc người đọc, sự định kiến, thù hận, quan tâm. Như Waite cũng đã nêu ra trong phần lưu ý trong sách của mình, ông nói: “Giữ cho tâm trí tránh khỏi sự thiên vị và những định kiến càng xa càng tốt, nếu không sự phán xét của bạn sẽ bị nhuốm màu theo những điều đó.” 

Còn theo trường phái tâm lý, thì việc rút bài nên là người xem Tarot. Điều này có thể giúp phá vỡ những rào cản tâm lý vô hình để giúp người xem có thể chia sẻ câu chuyện của mình. Và bên cạnh đó, người đọc bài cũng cần phải ở trạng thái không định kiến hay thiên vị, mới có thể giúp được người xem một cách tốt nhất. 


Tạm Kết: 
Để tạm kết lại trong chương này, chúng tôi tin rằng quá trình làm quen và thực hành với cỗ Tarot là một quá trình cá nhân hóa. Nó mang đậm màu sắc cá nhân vì vậy những kiến thức chúng tôi nêu ra nhằm giúp bạn có cái nhìn toàn diện hơn trong lĩnh vực Tarot rộng lớn này. Bạn có thể đọc và lắng nghe, song quyết định nằm trong tay bạn, cũng như cỗ Tarot nằm trong tay bạn. Hãy gieo trồng niềm vui để thu gặt hạnh phúc.



Phùng Lâm, nhà văn, thành viên Tarot Huyền Bí, một người nghiên cứu Tarot tại tp HCM. Tác giả của nhiều đầu sách về tarot như Tarot Dẫn Nhập Ngắn, 80 Ngày Học Tarot Cho Người Mới Bắt Đầu...

Philippe Ngo, sáng lập Tarot Huyền Bí, một người nghiên cứu tarot tại Pháp. Tác giả của nhiều đầu sách tarot như Quỷ Học Trong Tarot, Dự Đoán Thời Gian Trong Tarot, Hành Trình Chàng Khờ Trong Tarot ...

Đọc tiếp »

Tarot Cấm Thư - Chương VIII: Cấu Trúc Và Ý Nghĩa 40 Lá Số

item-thumbnail
Bốn mươi lá số được chia thành bốn bộ, mỗi bộ gồm từ lá Ace cho tới lá số 10. Bao gồm các bộ gậy cúp kiếm tiền được ghép tương ứng với các nguyên tố lửa nước khí đất. Mặt khác, bốn đầu hình này có sự tương ứng với tứ giới trong huyền học Do Thái Cổ. Cụ thể, Atziluth: nguyên giới/ thế giới bản nguyên, chứa đựng nguồn năng lượng nguyên thủy, thôi thúc cho sự sáng tạo, gắn kết với bộ Wands – tượng trưng cho tư tưởng, ý tưởng, nhiệt huyết. Briah: sinh giới/ thế giới của sự sinh sôi nảy nở và nuôi dưỡng, gắn kết với bộ Cups – nơi nguồn nước nuôi dưỡng, chăm sóc nguồn năng lượng nguyên thủy. Yetzirat: tạo giới/thế giới của sự đa dạng, khi bắt đầu có sự phân chia, tạo hình, phát triển, gắn kết với bộ Swords – nơi ngôn ngữ, ánh sáng, những thiết kế hình thành và chứa đựng thông tin. Assiah: chân giới/ thế giới thực tại, gắn kết với bộ Pentacles – nơi mà các nguồn năng lượng được cố định, trở nên hữu hình hữu thể trong không gian và thời gian.



Có một điểm cần chú ý ở các lá số là chúng ta sẽ chú ý đến hai giai đoạn trong lịch sử Tarot, trước Waite và sau Waite. Ở các thế kỷ trước những bộ bài như Visconti-Sforza Tarocchi, Tarot De Marseilles hay Ettellia Tarot đều có một điểm chung là các lá số đều chỉ thể hiện các biểu tượng, và sự tăng lên của các biểu tượng trong lá bài với con số tương ứng. Mãi cho đến khi bộ Rider – Waite doArthur E. Waite thiết kế và minh họa bởi Pamela Coleman Smith lần đầu tiên được xuất bản. Thì các biểu tượng đầu hình thay vì được sắp xếp như cũ thì được chuyển đổi thể hiện bằng các hoạt cảnh tương tự như ở các lá ẩn chính. Đây là một bước đột phá lớn, dẫu vào thời điểm đó gặp nhiều phản đối từ các nhà huyền học khác. Song chính nhờ sự thay đổi này, mà Tarot bắt đầu phổ biến hơn với công chúng.

Quay trở lại với những lá số, thí dụ nếu ta xem các lá mặt đại diện cho những vai diễn trong một vở kịch, các lá ẩn chính là những sự kiện xảy ra/ hoặc đối tượng tương tác trong vở kịch ấy, khi đó những nhân vật tùy vào tính cách mà sẽ có cách phản ứng khác nhau đưa đến các hoàn cảnh khác nhau. Đó có thể là những đoạn xung đột cao trào, hay những cảnh vui vẻ bình yên, hoặc nỗi u buồn mất mát. Mặt khác, thí dụ ở hoàn cảnh số 2 thì chúng ta có nhiều nguyên nhân dẫn đến hoàn cảnh này. Thí dụ như 1+1=2, 3-1=2, 8/4=2… Vì vậy khi xem xét một hoàn cảnh cụ thể, cần nhìn nhận mọi việc trên nhiều góc nhìn, để tránh bỏ sót thông tin quan trọng. Thí dụ như lá ba gươm là sầu khổ, vậy thì nguyên nhân của nỗi niềm ấy là gì? Nỗi buồn đâu phải ai cũng như ai? Rồi niềm đau ấy sẽ trôi về đâu? Đó là những điều mà chúng ta nên chú tâm trong khi nghiên cứu, luận giải. Bởi, mỗi con người là một thân phận riêng biệt, không hình dung nhân dạng nào giống nhau.

Có hai yếu tố chính ảnh hưởng đến ý nghĩa của một lá số. Thứ nhất là con số của đầu hình, và thứ hai là yếu tố chiêm tinh( sao trong cung).


Cấu trúc số học trong các lá số:

Đầu tiên chúng ta hãy tìm hiểu về những con số.

Trong huyền học, tính biểu tượng của con số rất đa tầng đa nghĩa. Pythagoras đã xem những con số như là tiếng nói của vũ trụ, hay vạn vật đều được sắp xếp theo các con số. Trong huyền môn, ý nghĩa thâm ảo của các con số được những người theo phái Ngộ Đạo(Gnosticism), cũng như những người theo phái Huyền Học Do Thái Cổ(Hermetic Qabalah) phát triển lên. Thí dụ như con số 1 là con số tượng trưng cho sự tồn tại, cho ánh sáng, tượng trưng cho con người đứng thẳng giữa không gian. Là bản nguyên của sự hợp nhất giữa bóng tối và ánh sáng. Thể hiện sự tìm tòi, tự thấu hiểu. Con số 2 thể hiện sự phân cực; tính nhị nguyên- ánh sáng/ bóng tối, sống/ chết; những tri thức tiềm ẩn; nguồn sức mạnh đến từ bên trong. 

Hoặc như số 36 là một con số đặc biệt. Nó là con số của sự quy tụ vũ trụ, của sự hòa nhập các nguyên tố cũng như các chu trình tiến hóa. Ba mươi sáu là con số của trời, bảy mươi hai là con số của đất và một trăm lẻ tám là con số của nhân gian. Nếu ta cộng tổng các số lại, thí dụ như 36 = 3 +6 = 9, hoặc là 72= 7+2 = 9, và 108 = 1 + 0 +8 = 9. Không chỉ ở phương Tây, mà cả ở phương Đông thì đây là những con số đẹp, màu nhiệm và đầy sức mạnh. Nhắc đến phương Đông, thì chúng ta có thể bắt gặp được những nét tương đồng trong tư tưởng, triết lý về các con số như ở Lão Tử: “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bão dương, trùng khí dĩ vi hoà”. (Đạo sinh 1; 1 sinh 2; 2 sinh 3; 3 sinh vạn vật. Vạn vật cõng âm, ôm dương, điều hoà bằng trùng khí). [Đạo đức kinh, thiên 32]

Tuy nhiên, trong địa hạt của Tarot thì ý nghĩa của các con số được cô đọng lại. Theo Maxwell, thì chúng ta cần lưu ý đến các bộ ba, bộ bảy, cụm đẳng thức 3x7. Những con số sẽ được giản lược, trở về một thể thống nhất như con số 10 sẽ giản lược bằng cách cộng lại với nhau để thành 1. Tương tự với những số khác. Các con số từ 1-9 là bản nguyên, thể hiện những đặc điểm cơ bản nhất của các con số khai triển từ chúng.

Chúng ta có những ý nghĩa bản nguyên của chín con số như sau:

Số 1: Sự thống nhất, khởi nguồn, nam tính, năng lượng tích cực. Kết nối với các từ khóa: Độc lập, hành động, định hướng, khởi đầu, ý chí tuyệt đối.

Số 2: Sự phân cực, sự chuyển tiếp từ ổn định sang bất định, nữ tính, sự tiếp nhận cái mới, mâu thuẫn, tiêu cực. Liên kết với các từ khóa: Cân bằng, tương phản, lựa chọn, đàm phán, kết nối.


Số 3: Các sản phẩm của 1 và 2, tạo vật, sự sáng tạo được hiện thực hóa, sự phát triển, tiến hóa. Tương ứng với các từ khóa: Sự sinh sôi, phát triển, tăng trưởng, trực giác, sáng tạo, tiến bộ.

Số 4: Đây là con số đầu tiên có thể bình phương, thể hiện trạng thái thụ động thứ cấp. Nó có các cụm đồng đẳng thể hiện tính chất thụ động, tiêu cực và trì trệ là 2+2 và 3+1, mang tính chất nhị nguyên. Tuy nhiên ở bên trong nó hàm chứa các thành phần khởi nguồn cho sự biến đổi. Liên kết với các từ khóa: Ổn định, trì trệ, nghỉ ngơi, xây dựng, sự kiên nhẫn, thành quả.

Số 5: Hai đồng đẳng: 2+3 và 4+1. Mang tính chất nhị nguyên hoàn toàn, sự mâu thuẫn kết hợp với sự thụ động thành chất keo dính cản trở bước tiến, sự phát triển. Tuy nhiên ở đồng đẳng thứ hai, lại có sự tích lũy xây dựng để vượt qua sự trì trệ, chuẩn bị đón nhận những nguồn năng lượng tích cực mới. Liên kết với các từ khóa: Khó khăn, xung đột, mất mát, thử thách, thất bại, lo lắng, nỗi đau.

Số 6: Các cụm đồng đẳng: 1+5, 2+4, 3+3, 2x3. Đầu tiên, cặp ba và tư là hai nhóm cân bằng không ổn định. Sự tồn tại của cái cũ chiếm ưu thế. Trong khi đó, 2+4 lại tạo ra sự trì trệ, thụ động trở ngại cho việc tích lũy để tiến triển đến cái mới. 1+5 thể hiện sự chuyển biến, bắt đầu phát triển những hình thái mới. Liên kết với các từ khóa: Chân thành, nhạy bén, chiến tích, thành công, chiến thắng, vượt qua, tăng trưởng.

Số 7: Ba cụm đồng đẳng: 6+1, 2+5, 3+4. Cụm đầu tiên và thứ ba thể hiện sự phát triển với các yếu tố mới: 6+1 vẫn giữ trạng thái cân bằng, ổn định nhưng đồng thời xuất hiện sự khởi phát mới với nguồn năng lượng tích cực. 3+4 thể hiện sự biến đổi bằng hình thức xung đột giữa cái mới và cái cũ. 2+5 thì vẫn chịu sự chi phối, cản trở lớn nên không có chuyển biến, thậm chí đi lùi. Liên kết với các từ khóa: Sự hoàn thiện, thức tỉnh, tưởng tượng, chờ đợi, thất vọng, tranh đấu.

Số 8: Đây là con số rất quan trọng trong huyền học. Nó kết hợp từ các đồng đẳng: 1+7, 2+6, 3+5, 4+4, 23 ( 2x2x2). Cụm đồng đẳng đầu tiên cho thấy tính chất phát triển nhanh chóng của con số 8, tận dụng nền tảng cũ đã được xây dựng vững chắc để thúc đẩy cái mới, hệt như sự tái sinh. Cụm 2+6 là sự cân bằng, hòa hợp có nền tảng từ trước. 3+5 lại là sự phát triển theo hướng sai lầm, mê muội. 4+4 là sự trì trệ, tình trạng đối lập giữa hai trạng thụ động tương đồng. 23 là sự cân bằng, tuy nhiên hàm ẩn trạng thái thụ động, tiêu cực, tuy nhiên để đạt thành quả như ý cần phải có sự hành động, chuyển dịch. Tương ứng với các từ khóa: Dịch chuyển, bế tắc, chán nản, kiên trì, hành động, chuyên tâm, cẩn trọng.

Số 9: Đây là một con số lẻ; thụ động. Tuy nhiên sự thụ động này chỉ là biểu hiện bên ngoài, sự chuyển biến bên trong vẫn ngầm ngầm diễn ra.

Nếu số 8 là khỏi đầu cho sự tái sinh, thì số 9 là quá trình thai nghén. Nó chứa năm đồng đẳng gồm: 1+8, 2+7, 3+6, 4+5, 33 . Đồng đẳng 8+1 chứa đựng tính chất tích cực, giống như hạt giống tốt gieo trồng trên vùng đất phù hợp gặp điều kiện thời tiết thuận lời; các yếu tố hội tụ để quá trình phát triển diễn ra thuận lợi cho tới khi thu được thành quả. 2+7 là sự áp dụng khéo léo kiến thức và trí tuệ để giải quyết những xung đột thực tế; tháo gỡ vướng mắc để phát triển. 3+6 có ý nghĩa tương đồng song phải thể hiện sự phân cực về một phía. Cụm 4+5 cho thấy đây là phần khá tiêu cực, sự trì trệ chưa có dấu hiện thay đổi trong khi 32 là sự thoái hóa do sự sai lầm trong quá trình phát triển. Số 9 liền kết với các từ khóa: Ổn định, thõa mãn, hạnh phúc, quá trình hoàn thiện, tự chủ, nội tại, tăng trưởng.

Số 10: là con số lẻ mang tính chất tích cực. Đó là sự hoàn thành chu trình cũ để khởi phát chu trình mời. Tự bản thân 10 tương ứng với 1+0 để trở về thành 1, phân rã cái cũ để tạo thành cái mới. Bản thân con số 10 chứa trong nó sự ổn định tạm thời và sự thay đổi tất yếu. Con số này liên kết với các từ khóa: Hoàn tất, chuyển đổi, nhất nguyên, khởi phát, phá hủy, thịnh vượng.

Thí dụ, như khi đề cập đến con số 4 trong các lá số. Thì ta có các lá bốn gậy, bốn cúp, bốn gươm, bốn tiền. Dễ thấy nhất, trong bộ bài của Waite là bốn gậy miêu tả hình ảnh bốn cây gậy được sắp xếp thành hai bên, ở trên có giăng vòng hoa có những người đang hân hoan, vui vẻ(2+2). Lá bốn cúp diễn tả một người đang ngồi dưới gốc cây, bên cạnh có một chiếc cúp từ trong mây đưa ra; trước mặt là ba chiếc cúp(3+1). Lá bốn gươm diễn tả hình ảnh nhà mồ, có khắc tượng một hiệp sĩ trên áo quan, trên tường có khắc hình ba thanh gươm, bên dưới áo quan cũng có khắc hình một thanh gươm(3+1). Lá bốn tiền thể hiện một ông vua hai chân đạp lên hai đồng tiền lớn, tay và trên đầu có hai đồng tiền lớn(2+2). Nếu xét với con số 4, thì đều mang tính chất ổn định hoặc trì trệ tùy vào lá bài. Như lá bốn gậy là sự ổn định, hoàn thành một chu trình, thành quả, là giai đoạn nghỉ ngơi trước khi bước tiếp. Hay lá bốn cúp, là sự tiếp thu một cách thụ động từ bên ngoài, đồng thời chiêm nghiệm bên trong để giải quyết những vấn đề của tự thân. Lá bốn gươm, là một giai đoạn trì hoãn, nghỉ ngơi trước khi bắt đầu những trận chiến khốc liệt. Lá bốn tiền là sự ổn định, xây dựng nên những trật tự, quy tắc bất di bất dịch, bám vào cái cũ để phát triển, song chỉ là sự ổn định nhất thời vì nội tại bên trong đang có sự phân rã, hai đồng tiền ở trên bắt đầu có sự phân cực từ 2+2 chuyển dần sang 3+1.


Cấu trúc chiêm tinh trong các lá số: 

Chúng ta có bốn mươi lá số, ngoại từ bốn lá Ace tương ứng với bốn nguyên tố là khí-lửa-nước-đất thì còn lại là 36 lá số từ 2-10. Tương ứng với chiêm tinh là 36 decan. Theo hệ thống của Mathers thì mỗi lá số sẽ tương ứng với yếu tố sao trong cung.

Chúng ta sẽ có bộ gậy tương ứng với các cung lửa bao gồm: Bạch Dương, Sư Tử, Nhân Mã. Bộ cúp tương ứng với các cung nước: Cự Giải, Bọ Cạp, Song Ngư. Bộ gươm tương ứng với các cung khí: Thiên Bình, Bảo Bình, Song Tử. Bộ tiền tương ứng với các cung đất: Ma Kết, Kim Ngưu, Xử Nữ.

Trong các lá số, thì các lá 2,3,4 tương ứng với các cung mang tính chất thống lĩnh( Bạch Dương, Cự Giải, Thiên Bình, Ma Kết). Các lá 5,6,7 tương ứng với cung mang tính chất kiên định( Sư Tử, Bọ Cạp, Bảo Bình, Kim Ngưu). Các lá 8,9,10 tương ứng với các cung mang tính chất linh hoạt( Nhân Mã, Song Ngư, Song Tử, Xử Nữ). Trong Book T, bắt đầu từ 00 ở cung Sư Tử chúng ta sẽ có các sao sắp xếp theo thứ tự: Thổ Tinh- Mộc Tinh- Hỏa Tinh- Mặt Trời-Kim Tinh-Thủy Tinh- Mặt Trăng.

Tên Lá Bài
Chủ Về
Sao
Cung
Xung Đột
Saturn
Leo
Thắng Lợi
Jupiter
Leo
Dũng Cảm
Mars
Leo
Thận Trọng
Sun
Virgo
Lợi Ích Gia Tăng
Venus
Virgo
Thịnh Vượng
Mercury
Virgo
Khôi Phục Hòa Bình
Moon
Libra
Sầu Khổ
Saturn
Libra
Nghỉ Ngơi giữa cuộc chiến
Jupiter
Libra
Mất Mát Giữa Cuộc Vui
Mars
Scorpio
Niềm Vui
Sun
Scorpio
Thành Công Ảo
Venus
Scorpio
Nhanh Chóng
Mercury
Sagittarius
Đại Nghị Lực
Moon
Sagittarius
Áp Lực
Saturn
Sagittarius
Thay Đổi Phù Hợp
Jupiter
Capricorn
Công Việc Thực Tại
Mars
Capricorn
Quyền Lực Thực tế
Sun
Capricorn
Thất Bại
Venus
Aquarius
Thành Công Khó Nhọc
Mercury
Aquarius
Nỗ Lực Bị Gián Đoạn
Moon
Aquarius
Thành Quả Bị Chối Từ
Saturn
Pisces
Thỏa Mãn Hiện Tại
Jupiter
Pisces
Thành Quả Viên Mãn
Mars
Pisces
Quyền Thống Trị
Mars
Aries
Sức Mạnh Ổn Định
Sun
Aries
Hoàn Thành Công Việc
Venus
Aries
Khos Khăn Thực Tế
Mercury
Taurus
Thành Công Thực Tại
Moon
Taurus
Thành Quà Chưa Trọn Vẹn
Saturn
Taurus
Tác Động Ngắn Hạn
Jupiter
Gemini
Tuyệt Vọng Và Tàn Ác
Mars
Gemini
Phá Hủy
Sun
Gemini
Tình Yêu
Venus
Cancer
Sự Dồi Dào
Mercury
Cancer
Niềm Vui Lẫn Lộn
Moon
Cancer

Quay trở lại với lá bốn gậy. Trong Book T, Mathers đã mô tả hình ảnh hai cánh tay thiên thần từ trong mây vươn ra, ở hai bên trái phải để giữ bốn cây gậy tại một điểm giao nhau ở giữa có xuất hiện lưỡi tầm sét cũng như ngọn lửa, các cây gậy được chia làm hai nhóm với biểu tượng của Kim Tinh và Bạch Dương. Trên dưới là hai cặp đũa phép đang phát lửa. Ông xem lá bài này thể hiện thành quả của công việc sau quá trình hoạt động tích lũy để bước vào giai đoạn thu hái. Còn trong Book Of Thoth, Crowley lại mô tả hình ảnh lá bài này với bốn cây gậy xếp thành hình một chiếc bánh xe, hai cây có đầu con cừu đại diện cho cung Bạch Dương; hai cây có đầu con chim bồ câu đại diện cho Kim Tinh. Chúng ta biết Sao Kim với từ khóa: tình cảm, mang theo những thuộc tính tình yêu, sắc đẹp, giá trị, sở hữu, tài chính,cao quý. Còn Bạch Dương với những tư chất: thống lĩnh, độc lập, không khoan nhượng, cố chấp, liều lĩnh, can đảm. Khi Kim Tinh đi vào Bạch Dương diễn tả những sự kiện mang tính chất tập trung gắn liền với các vấn đề quan hệ, nghệ thuật, sự kiện do Kim Tinh mang đến xảy ra một cách chậm rãi, tuần tự tuy nhiên nó lại mang theo tính chất bất định, nên hiếm khi được chú ý, còn chủ thể mang tư chất của Bạch Dương sau quá trình tích lũy thì độ nóng ngọn lửa của cái tôi sẽ giảm nhẹ đi, để biết khéo léo trong việc kết nối với công việc, tạo dựng các mối quan hệ xã hội. Sự tế nhị, hòa nhã là nghệ thuật để điều tiết những xung đột căng thẳng trong công việc.

Tuy nhiên, Kim Tinh trong Bạch Dương dễ khiến chủ thể cháy bùng lên ngọn lửa đam mê không chỉ trong công việc, mà còn vấn đề khác như bạn bè, tình ái. Và dễ lao vào những cuộc vui và ảnh hưởng ngược chủ thể. Sự kiêu ngạo, chủ quan sẽ dễ khiến chủ thể chìm trong hào quang của những thành quả vừa đạt được. Trong chiêm tinh học, theo Max Heindel thì Kim Tinh ở Bạch Dương ám chỉ đến những người nhiệt tâm giúp đỡ kẻ khác không cầu báo đáp, chi tiêu quá mức, dễ vướng vào các rắc rối tình ái; tình dục.

Như đã đề cập ở phần Chiêm Tinh trong các lá Major, thì thông thường chúng ta tham chiếu đến hệ thống cấu trúc của Mathers, tuy nhiên có nhiều hệ thống với cấu trúc khác nhau, phức tạp hơn. Một trong các cấu trúc chiêm tinh nổi bật đáng lưu ý là hệ thống của A. E. Thierens. Ông tin rằng bộ gậy tương ứng với nguyên tố khí, bộ tiền tương ứng với với nguyên tố lửa. Tương ứng, khởi đầu của bộ gậy khởi ở nhà một, bộ tiền khởi đầu ở nhà năm. Còn bộ cúp thuộc nước, khởi đầu ở nhà số chín và bộ gươm thuộc đất quay lại khởi đầu ở nhà một.

BỘ GẬY:






1
and
King
Aries
or
I
house
2
Queen
Taurus
II
3
Page
Gemini
III
4
Knight
Cancer
IV
5


Leo
V
6


Virgo
VI
7


Libra
VII
8


Scorpio
VIII
9


Sagittarius
IX
10


Capricornus
X


Page
Aquarius
XI


Knight
Pisces
XII

BỘ TIỀN:






1
and
King
Leo
or
V
house
2
Queen
Virgo
VI
3
Page
Libra
VII
„ 
4
and
Knight
Scorpio
or
VIII
house
5


Sagittarius
IX
6


Capricornus
X
7


Aquarius
XI
8


Pisces
XII
9


Aries
I
10


Taurus
II


Page
Gemini
III


Knight
Cancer
IV

BỘ CÚP:






1
and
King
Sagittarius
or
IX
house
2
Queen
Capricornus
X
3
Page
Aquarius
XI
4
Knight
Pisces
XII
5


Aries
I
6


Taurus
II
7


Gemini
III
8


Cancer
IV
9


Leo
V
10


Virgo
VI


Page
Libra
VII


Knight
Scorpio
VIII

BỘ GƯƠM:






1
and
King
Aries
or
I
house
2
Queen
Taurus
II
3
Page
Gemini
III
4
,,
Knight
Cancer
IV
5


Leo
V
6


Virgo
VI
7


Libra
VII
8


Scorpio
VIII
    „ 
9


Sagittarius
or
IX
house
10


Capricornus
X


Page
Aquarius
XI


Knight
Pisces
XII































































Trong đó các lá Vua; lá số 1,5,9 tương ứng với nhà của nguyên tố lửa. Các lá Hậu; lá số 2,6,10 tương ứng với nhà của nguyên tố đất. Các lá Tiểu Đồng; lá số 3,7 tương với với nhà của nguyên tố khí. Các lá kị sĩ; lá 4,8 tương ứng với nhà của nguyên tố nước. 

Tương ứng với hệ thống này thì sự luận giải trong các lá bài của Thierens cũng có phần khác biệt. Thí dụ, ở lá 2 cúp theo Thierens tương ứng với nhà số 10, chủ cung Ma Kết nên nguyên tố nước chảy qua sẽ mang theo tính chất chủ động. Nguồn năng lượng của nước không còn tĩnh lặng mà trở nên dâng trào, các chủ thể bị tác động và thôi thúc đến với nhau, để hòa quyện với nhau.

........

( Còn tiếp trong bản sách in)

Đọc các chương khác của cuốn Tarot Cấm Thư (Tarot Grimoire) của Phùng Lâm & Philippe Ngo.

Phùng Lâm, nhà văn, một người nghiên cứu tarot ở Sài Gòn. Tác giả của nhiều cuốn sách về tarot như Tarot Dẫn Nhập Ngắn, 80 Ngày Học Tarot Cho Người Mới Bắt Đầu...  
Philippe Ngo, sáng lập Tarot Huyền Bí, một người nghiên cứu tarot tại Pháp. Tác giả của nhiều đầu sách tarot như Quỷ Học Trong Tarot, Dự Đoán Thời Gian Trong Tarot, Hành Trình Chàng Khờ Trong Tarot ...
Đọc tiếp »
Tiếp Tục
Trang chủ