Bốn Nguyên Tố - Kiến Thức Cơ Bản

Dẫn: Bài viết được Francois Louis viết dành cho các newbie khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa hệ 4 nguyên tố trong các lá bài, đặc biệt là mối quan hệ giữa các đầu hình (gậy kiếm cốc tiền). Bài viết đặc biệt chú ý đến yếu tố tâm lý trong bốn nguyên tố, là một nền tảng cơ bản trong việc giải đoán tarot.


Mối quan hệ giữa 4 nguyên tố được giải thích trong rất nhiều sách cổ.



Theo các tài liệu cổ xưa, Vật Chất Đầu Tiên (First Matter) được hình thành từ ĐẤT, LỬA, NƯỚC VÀ KHÍ. Đây cũng là 4 cột trụ của thế giới. Theo nhà giả kim Ba Lan Michael Sendivogius (1566-1636). Đó là sự bắt nguồn của sự tiến hóa và ra khỏi khuôn đúc của những sự lộn xộn [ Vật Chất Đầu Tiên ] bằng bàn tay của Đấng Sáng Tạo, và nó cũng là hành động trái ngược để duy trì sự hài hòa và cân bằng trần thế của cỗ máy vũ trụ; đó chính là 4 nguyên tố, mà thông qua các ảnh hưởng của thiên đàng, tạo ra tất cả mọi thử bên trên và dưới Trái Đất. 

Như vậy, Bốn Nguyên Tố được đặt tên theo những nguyên mẫu cơ bản trong vật chất và là biểu tượng của những đặc tính siêu hình. Là những loại nguyên mẫu, các nguyên tố nằm ngoài bất kỳ lời giải thích hợp lý nào và phải có kinh nghiệm mới mới thấu hiểu được chúng. Triết gia người Pháp Gaston Bachelard (1884-1962) đã kết luận rằng bốn nguyên tố là kết quả của “ vật chất tạo nên hình ảnh” hoặc “ sự tưởng tượng vật chất” trong Nhất Tâm của vũ trụ. Ông nhìn vào sự tương tác của các nguyên tố từ quan điểm của mỗi nguyên tố đã từng tìm kiếm. “ Niềm vui của Đất là giàu có và trở ngại”, ông nói rằng “ Niềm vui của Nước là mềm mại và nghỉ ngơi; Sự hân hoan của Lửa là khát vọng và tình yêu, sư vui sướng của Khí là tự do và chuyển động” 

Trong những câu trả lời từ các nguyên tố, những nhà giả kim theo trường phái Rumi miêu tả những nguyên tố như là những cách thể hiện tình yêu của linh hồn vũ trụ về những linh hồn linh thiêng: “Tối qua, tôi hỏi ánh trăng về Mặt Trăng, một câu hỏi của tôi về thế giới hiện thực, Chúa ở đâu ? Ánh trăng trả lời, tôi là bụi được khuấy lên khi Ngài bằng qua. Mặt Trời : Sắc mặt tôi chuyển sang vàng nhạt khi tôi nhìn thấy Ngài. Lửa Tia chớp của người – Tôi muốn trở thành cái không dứt đó. Gió : Tại sao lại là tia chớp ? Tôi cũng sẽ cháy nếu tôi có 1 lựa chọn. Đất, yên lặng, đã được hấp thụ : Bên trong tôi có một khu vườn và một mùa xuân náo động” 

Người Hy Lạp cổ đã làm rất nhiều thuyết về bản chất của Vật Chất Đầu Tiên ( họ gọi là hyle), và đó là khởi nguồn nổi lên của học thuyết về 4 nguyên tố. Nhà triết học đầu tiên chính thức hóa thuyết này là Empedocles, 1 triết gia Hy Lạp và là y sĩ sống vào khoảng năm 450 trước Công Nguyên. Trong Tetrasomia của mình (“Học thuyết của 4 nguyên tố”), ông tuyên bố rằng tất cả các vấn đềm bao gồm 4 gốc rễ ( hoặc 4 nguyên tố) là : Đất, Nước, Khí và Lửa.

 Hình ảnh 4 nguyên tố trong một cuốn sách giả kim thuật.

Theo Empedocles, Lửa và Khí là các nguyên tố “chìa ra bên ngoài”, vươn lên và chìa ra ngoài, trong Đất và Nước quay vào trong và hướng xuống dưới. Trong quan điểm của ông, và của các nhà giả kim thuật sau đó, các nguyên tố không chỉ là vật chất căn bản mà còn là tinh chất tâm linh. Để đưa ra quyền năng của nguyên mẫu, Empedocles đã liên kết từng nguyên tố với một vị thần. “Hera cai trị sự màu mỡ của Đất”, ông viết. “ Hades là trung tâm của Lửa, Zeus là sự tỏa sáng của Khí và Persephone là êm dịu của Nước” 

Các nguyên tố được hoạt động liên tục thông qua sự tương tác của 2 nguồn năng lượng sống tuyệt vời được Empedocles gọi là Tình yêu và Xung đột ( Eros và Eris). Tình yêu được ông gắn liền với nữ thần Aphrodite, và Xung đột thì được gắn với thần chiến tranh Ares. Cách nhìn đơn giản giải thích gần với mọi khía cạnh của thế giới Hy Lạp cổ xưa. Tình yêu và Xung đột là vị thần khởi tổ có trước các vị thần ở đỉnh Olympus. Ý tưởng này rất giống với truyền thống Phương Đông Yin và Yang, với Yin là năng lượng nữ tính thụ động của Tình yêu và Yang là năng lượng nam tính mạnh mẽ của Xung Đột. Các nhà giả kim Ai Cập kết hợp năng lượng nữ tính ( Tình yêu ) với Mặt Trăng và năng lượng nam tính ( Xung đột) với Mặt Trời, trong khi các nhà giả kim Châu Âu kết hợp năng lượng nữ tính với Nữ Hoàng và năng lượng nam tính với Nhà Vua. 

Aristole ( 350 trước Công Nguyên ) tiếp tục phát triển các lý thuyết của Empedocles bằng cách giải thích về chất lượng của những nguyên tố này. Theo ông, các nguyên tố phát sinh từ tác động của tính lý tưởng ( hoặc nguyên mẫu ) của nóng bỏng và lạnh lủng, của khô ráo và ướt át. Lửa (khô và nóng) và Nước ( ướt át và lạnh lẽo ) là 2 cực đối đầu, cũng như vậy Đất ( khô và lạnh ) và Khí ( ẩm ướt và nóng). Ẩm ướt và khô ráo là những phẩm chất chính. Ẩm ướt ( Độ ẩm ) là phẩm chất của sự lưu động hoặc linh hoạt, cho phép một thứ thích ứng với những điều kiện bên ngoài của chính nó, trong khi Khô ráo ( khô hạn) là phẩm chất của độ cứng, cho phép một thứ xác định hình dạng và giới hạn của riêng mình. Kết quả là những thứ Ẩm ướt có xu hướng ổn định và mở rộng, vì chúng có thể lấp đầy khoảng trống trong môi trường quanh mình, trong khi Khô ráo là cố định và đã được xây dựng, vì chúng tự xác định hình thức của mình. Aristotle đã dự đoán rằng một vật chất có thể chuyển đổi thành dạng khác bằng cách thay đổi sự pha trộn của các nguyên tố nguyên mẫu và phẩm chất của chúng.

Biểu tượng của 4 nguyên tố.

Biểu tượng của Lửa là một hình tam giác có đỉnh hướng lên trên, vì Lửa với tính nóng và khô của mình là các yếu tố bất ổn nhất và tìm cách hướng lên trên. Biểu tượng của Nước là một tam giác có đỉnh hướng xuống dưới, vì Nước với tính lạnh và ẩm ướt của nó tìm cách hướng xuống dưới hoặc ngưng tụ. Lửa và Nước là 2 nguyên tố thuần nhất, và 2 nguyên tố Khí và Đất được coi là phiên bản vật chất của chúng. Do vậy, biểu tượng của Khí là tam giác hướng lên trên của Lửa với một đường ngang qua nó. Khí thì nóng và ẩm, nó tìm đường hướng lên trên, nhưng thành phẩn độ ẩm trong nó lại chặn toàn bộ các nguyên tắc của Lửa, nó giống như được phân định bằng đường ngang trong tam giác. Vì thế, Khí bị treo lơ lửng trong không gian và thời gian, bị kẹt giữa những thái cực Phía Trên và Phía Dưới. Kí hiệu của Đất là 1 hình tam giác có đỉnh hướng xuống dưới và một đường kẻ ngang qua nó. Đất thì lạnh và khô, nó tìm kiếm sự hướng xuống dưới, nhưng tính khô của bản thân nó lại chặn toàn bộ các nguyên tắc của Nước, nó giống như được phân định bởi bằng đường ngang trong tam giác. Như vậy, Đất bị treo lơ lửng trong không gian và thời gian. 

Một triết gia khác người Hy Lạp là Hippocrates ( năm 400 trước Công Nguyên), đã biên soạn thêm vào học thuyết các nguyên tố của mình bằng cách áp dụng chúng vào tâm lý con người. Ông cho rằng các nguyên tố với tư cách là thay đổi cơ thể được ông gọi là “những tâm trạng”. Trong hệ thống của Hippocrate, Lửa được kết hợp với tâm trạng nóng nảy trên khuân mặt vàng, mang trong nó cholesterol như là sản phẩm của sự tiêu hóa và chuyển đổi năng lượng trong cơ thể. Aristole nói rằng sức mạnh của sự nóng nảy sẽ nóng và khô. Những con người nóng nảy có xu hướng năng động, hoạt động, di chuyển, “bùng cháy”, và nhiệt tình. 

Nước là kết hợp của tính lạnh nhạt trong sự lạnh lùng, đại diện cho những sự thay đổi rõ ràng của cơ thể bên trong bởi hệ thống bạch cầu và được tiết ra bởi các màng nhầy. Nguyên tố Nước có thể kết hợp với sự giải thể, phổ biến, thống nhất, và chuyển đổi, và con người có tâm trạng lạnh nhạt chiếm ưu thế có xu hướng bị cuốn đi và khá là uyển chuyển, cho phép cảm xúc hướng dẫn mình, và hướng tới sư hài hòa cảm xúc.




 Hình ảnh của 4 trạng thái (temperamentum) trong một sách cổ: Sanguine, Choleric, Melancholic, Phlegmatic.

Đất gắn liền với tâm trạng u sầu hiện trên khuân mặt đen xạm, mà có thể ám chỉ tới việc lãng phí những kết quả liên quan tới tiêu hóa như là phân, từ đó năng lượng hữu ích được gỡ bỏ chỉ để lại những cặn bã của vấn đề về sau. Những con người u sầu có xu hướng thờ ơ, thụ động, cứng đầu, chậm chạp,cứng nhắc nhưng thực tế. Vì Đất là có cấu trúc nguyên tắc và vật chất hóa, tâm trạng u sầu chiếm ưu thế ở những người tập trung vào thực tại vật chất và có xu hướng thể hiển những phẩm chất của sự kiên trì, thiếu linh hoạt, chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa hiện thực. Trong nguyên lý của Aristole, những người như vậy sẽ mát mẻ và khô 

Lý thuyết về các loại tính cách của Carl Jung rõ ràng có nguồn gốc từ những tâm trạng của Hippocrates. 4 loại Jungian cơ bản, mỗi loại được liên kết với một tâm trạng : cảm xúc ( Lửa, nóng nảy), suy nghĩ ( Nước, lạnh lùng), trực giác ( Khí, lạc quan) và cảm nhận ( Đất, u sầu). Bằng cách kết hợp các cực của hướng nội ( một người tập trung vào cảm xúc và suy nghĩ bên trong) và hướng ngoại (một người tập trung vào mối quan hệ và các đối tượng bên ngoài), Jung phát triển tám loại tính cách. Trong tâm lý học, ta cũng tìm được bốn tâm trạng được thể hiện như là sự biến đổi cá nhân được phổ biến trong thử nghiệm Meyers-Briggs. Trong bảng màu Luscher, màu đỏ của Lửa có những phẩm chất của sự phấn khích, hoạt động và sự tự tin. Màu xanh của Nước có liên quan đến sự thư giãn, sự hài lòng và sự mực thước. Màu vàng của Khí có phẩm chất của sự tự do suy nghĩ, thay đổi và tự phát triển. Màu xanh lá cây của Đất gắn liền với sự bền vững, kiên trì và lòng tự trọng 

Jung thấy 4 nguyên tố như là những nguyên mấu tồn tại trong tập thể vô thức và do đó hiện diện trong tất cả mọi người. Jung coi Lửa và Khí là chủ động, những nguyên tố nam tính còn Nước và Đất là bị động, những nguyên tố nữ tính. Trong tâm lý học của Jung, đó là mức độ phát triển của mỗi 4 nguyên tố trong sự cân bằng tâm thức với sự giữ lại của những nguyên tố còn lại để xác định tính cách và quan điểm của chúng ta. Nói cách khác, câu trúc này gấp 4 lần cấu trúc của tính cách cơ bản của chúng ta từ việc tạo ra cái tôi ra khỏi sự hỗn độn vô thức, như là 4 lần cấu trúc của vũ trụ được tạo ra bởi hành động của Nhất Tâm về Vật Chất Đầu Tiên. 


DMCA.com Protection Status
Bài viết "Bốn Nguyên Tố - Kiến Thức Cơ Bản" có bản quyền, được bảo vệ bởi DMCA. Bất kỳ hình thức sao chép lại ở các trang khác mà không tuân thủ các điều khoảng sử dụng của chúng tôi sẽ được thông báo đến DMCA để thực hiện gỡ bỏ khỏi hệ thống tìm kiếm của Google và Bing. Truy cập DMCA.COM để biết thêm về các biện pháp trừng phạt do vi phạm bản quyền nội dung số.
Trang chủ